Tại đây, mọi người được nghe ông chia sẻ về truyền thống gia đình ba đời gắn bó với “nghiệp nông” trên những mảnh vườn thửa ruộng đã khai hoang từ vùng bán sơn địa.
Mặc dù ở tuổi 86 nhưng ông còn khá rắn rỏi khỏe mạnh, nhanh nhẹn, với phong cách vui dí dỏm khi tiếp chuyện chúng tôi. Đốt điếu thuốc, hớp ngụm trà nóng, ông Ba Lập bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời và hành trình lập nghiệp tại vùng đất mới của mình.
Ông sinh ra trong gia đình có 7 anh chị em, nhà có truyền thống yêu nước và tham gia cách mạng tại xã Tương Bình Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương). Cha ông đã tham gia kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu, thời đó người anh trai cả của ông cũng theo nghiệp binh của cha làm giao liên và đã bị hy sinh.
Năm 1959, gia đình Ba Lập gặp nhiều khó khăn, bởi giặc ráo riết lùng sục, bắt bớ đánh đập, giết người kháng chiến cũ như cơm bữa. Lúc bấy giờ, cậu bé Ba Lập mới 8 tuổi nhưng cũng đã biết nghĩ cách đi bẻ cau thuê lấy tiền ủng hộ bộ đội.
Gia đình nghèo, không ruộng rẫy, hằng ngày cha ông phải lặn lội ngoài bờ sông bắt con cá, con tép, còn mẹ ông lam lũ hái từng cọng rau đem bán lấy tiền mua gạo, mắm muối. Hơn nữa, ruộng đất bị người chủ lấy lại nên không có gì để làm ăn, mẹ công còn phải đi “ở đợ” theo mùa cho nhà giàu trong làng.
Do đó, Ba Lập phải theo cha đi Hưng Lộc (chỗ ở hiện nay) để tránh giặc, đồng thời khai hoang lập rẫy tạo dựng cơ nghiệp cho tương lai sau này.
Sáng tạo trong sản xuất tại vùng đất mới, hằng ngày Ba Lập cùng cha ra sức khai hoang để có đất canh tác trồng hoa màu, cây ăn trái. Hồi đó, vùng Hưng Lộc toàn rừng già, cây cối rậm rạp và có nhiều thú dữ, từng vồ chết nhiều người dân khi đang khai hoang lập rẫy.
Ba Lập kể: “Thời gian đầu, nguồn kinh tế tự nhiên ở vùng đất mới rất dồi dào như rùa, ếch, lươn, gà rừng…nên người nghèo đến đây không lo bị đói. Vậy nhưng săn bắt riết nguồn kinh tế tự nhiên cũng dần hết đi, do người dân đến khai hoang đất rừng ngày càng nhiều”.
Lúc này ở Hưng Lộc, giặc càn bố bắt lính nên Ba Lập nhiều lần phải tạm xa gia đình để trốn lính ở Trại thực nghiệm Hưng Lộc và chính trong thời gian này ông đã học hỏi, tích lũy được nhiều kỹ thuật làm nông nghiệp từ những chuyên gia nước ngoài làm việc ở đây.
Thậm chí Ba Lập còn lưu giữ được nhiều giống bắp, cao lương, khoai lang quý để sau này khi cần dùng đến. Do tính hiền lành, khéo léo, tận tình giúp đỡ mọi người nên ở đâu cũng được bà con chòm xóm thương quý và giúp ông trốn lính an toàn cho đến ngày giải phóng.
Trong những năm đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, tình trạng đói kém diễn ra khắp nơi, người dân chủ yếu ăn củ mì xắt lát phơi khô. Nhờ tích lũy vốn kiến thức nông nghiệp, ông là một nông dân sản xuất giỏi và có nhiều đóng góp vào phong trào sản xuất nông nghiệp tập thể.
Trong đó, ông Ba Lập còn lưu giữ được nhiều giống cao lương, khoai, đậu có năng suất cao và đem chia sẻ cho người dân xung quanh cùng trồng hiệu quả.
Cũng vì thế, ông được bà con trong vùng yêu quý đặt cho nhiều biệt danh “Vua cao lương”, “Vua khoai lang”, “Vua nhân giống đậu”…
Sau giải phóng, thực hiện chủ trương “lá lành đùm lá rách”, ông Ba Lập đã hiến 13 mẫu đất để giúp đỡ người nghèo khó. Khi có chủ trương về việc xây dựng miền Nam đi vào hợp tác hóa nông nghiệp (tức làm ăn tập đoàn tập thể, hợp tác xã), ông Ba Lập được bầu làm Tập đoàn trưởng Tập đoàn 3 của ấp Hưng Nhơn.
Ba Lập tâm sự: “Từ những giống khoai lang lưu giữ được từ thời trốn lính ở trại Thực nghiệm Hưng Lộc, tôi đem nhân giống khoai Tài Nung tại rẫy nhà cho năng suất trên 40 tấn/mẫu. Thấy khoai lang ngon, năng suất cao, nhiều người xin tôi cho giống về trồng nên đã thoát được nạn đói”.
Theo ông Ba Lập, việc sản xuất nông nghiệp ở vùng đất Hưng Nhơn gặp rất nhiều khó khăn, bởi nơi đây thuộc vùng bán sơn địa, chỗ cao, chỗ trũng; khắp nơi có nhiều đá trồi lẫn đá chìm trong đất. Vì thiếu nước nên việc trồng các loại cây như lúa, bắp, khoai, mì đều không hiệu quả...
Sau nhiều đêm trăn trở suy nghĩ, ông Ba Lập đã nghĩ ra cách làm ăn hiệu quả, khoán việc cho từng hộ gia đình. Cụ thể, ông khoán 1 sào ruộng và yêu cầu người dân phải cuốc đất xong trong 4 ngày công; xới đất qua lại cho nhuyễn trong 2 ngày công; cấy lúa, gặt đập…
Cộng tất cả công lại là 10 ngày tương đương 100 điểm, rồi quy ra lúa để bà con nhận về ăn, phần còn lại để đóng thuế cho nhà nước, công ích tích lũy…Cách làm này đã kích thích niềm hăng say lao động của mọi người, gắn liền trách nhiệm với quyền lợi, bỏ hẳn tư tưởng ỷ lại “cha chung không ai khóc”.
Trước đây, năng suất lúa ở Hưng Nhơn chỉ đạt từ 1 - 2 tấn/mẫu, nhưng nhờ cách giao khoán mà nhiều gia đình “đổ” thêm nhiều công, phân bón, nên năng suất lúa có lúc đạt tới 9 - 10 tấn/mẫu.
Ông Ba Lập có đức tính thương người, hay giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, cơ nhỡ. Gia đình ông có trồng tre với diện tích gần 1 sào, nhưng ông không bán mà chỉ để giúp bà con lối xóm trong việc sửa chữa nhà, làm vạc giường và sẵn sàng tạo điều kiện giao đất và hướng dẫn cho mọi người cách làm ăn để vươn lên…
Hiện nay, ông Ba Lập đã bước qua tuổi “thất thập cổ lai hy”. Dù không còn làm việc nhưng lúc nào ông cũng dõi theo con, cháu và đem kinh nghiệm của mình để chỉ dẫn con cháu cách làm ăn để vươn lên trong cuộc sống, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Ông Ba Lập chia sẻ: “Gia đình tôi ngay từ ông cố nội đến cha rồi đến đời tôi vẫn luôn gắn bó với nghề nông làm vườn. Đến nay con cháu tôi cũng đang tiếp nối nghề truyền thống này. Tôi đã chỉ bảo cho con cháu mình rằng làm nông nghiệp quan trọng nhất là về nước, phân, giống và sự cần cù của người lao động sẽ cho kết quả tốt”.
Theo kinh nghiệm của ông Ba Lập, ngày xưa canh tác không dùng nhiều phân thuốc như bây giờ mà chủ yếu chỉ phụ thuộc vào thời tiết, nếu may mắn thì sâu bệnh ít sẽ cho năng suất cao. Còn ngày nay sâu bệnh gì cũng có phân thuốc đó đặc trị liền và sản phẩm làm ra tiêu thụ dễ hơn vì các phương tiện cơ giới vào tận vườn chuyên chở đi tiêu thụ không như ngày xưa phải dùng sức người gánh vác nông sản rất khó khăn.
Anh Ngô Thanh Long, con rể của ông Ba Lập cũng tự hào về cha mình nói: “Gia đình có truyền thống làm nông nghiệp, chúng em từ con trai, gái, rể, cháu nội ngoại đều luôn tự hào về cha ông mình từng là một cán bộ nông nghiệp rất giỏi và có nhiều kinh nghiệm quý trong sản xuất.
Qua đó, chúng em đã học hỏi được nhiều kỹ thuật hay từ cha ông chỉ bảo để áp dụng phát triển các mô hình trồng bưởi, thanh long, chôm chôm đạt năng suất cao”.
Anh hùng Lao động Lê Văn Lập đã hiến hàng ngàn mét vuông đất để chung sức xây dựng trường học và mở rộng, nâng cấp tuyến đường dài 1km dùng làm lối đi chung cho mọi người dân trong vùng. Nhờ đó, con đường càng trở nên khang trang, sạch đẹp, giúp việc đi lại thuận tiện. Hiện bà con thường gọi tên đường là “đường Lê Văn Lập” để nhớ ơn ông…