Bởi từ lâu ông cậu đơn thân không gần gũi lắm với đám cháu. Họ dễ dàng hòa giải với cái chết của người mà hồi còn mạnh giỏi luôn bày khó chịu ra mặt mỗi khi con cháu ghé thăm.
Ông sợ họ xê dịch những cuốn sách, sợ họ gạt tàn thuốc lên bụi kèo nèo mọc ngay bên sàn nước, sợ họ làm mất giấc ngủ của con cú mèo gà gật, và hơn hết ông sợ họ trong vô thức ướm mình vào vị trí chủ nhân, định giá bằng mắt hoặc không kìm được, nói thành lời giá trị của ngôi nhà sàn cất trên cái ao rộng ngay trong lòng thành phố, với sự ham muốn không thể che giấu mình sẽ được sở hữu nó ngay khi người chủ qua đời.
Luôn giữ khoảng cách với con cháu, nên khi ông cạn thở, người ở lại không quá bàng hoàng, chỉ có chút chạnh lòng khi đứng bên một thân xác còm nhom. Và lúc bắt tay vào phần viết ai điếu, con cháu nhận ra họ không biết gì về người được tính như ruột thịt của mình.
Một căn cước mù mờ, chính xác thì cậu thuộc về nơi chốn nào? Đứa bé sinh ra trên chuyến tàu tản cư hồi nọ, như là điềm báo cho cuộc rày đây mai đó, sau này.
Quê quán, cậu khai vào giấy căn cước hai chữ Cầu Rơm. Chẳng liên quan gì tới nội ngoại hai bên. Chỉ là người mẹ từng kể cuống rún ông được chôn ở đó, trên đường chạy giặc. Nếu coi quê quán là nơi có bàn thờ cha mẹ, thì quê phải tận Nam Vang, nơi thằng em út cậu mở tiệm phở Việt.
Chọn lấy quê nội để ghi vào điếu văn, người chấp bút cũng thấy có điều gì đó không phải, bởi ai cũng biết chuyện cậu là con riêng của bà mẹ chạy dạt từ miền ngoài.
Tuổi thơ giấu khuất, lúc trưởng thành đời cậu cũng không sáng rõ gì hơn. Minh họa, trình bày cho một tòa báo gần hai chục năm, ông vẫn trơn trụi không đảng phái. Hoặc có nhưng ông cố tình (hay vô tình) đánh rơi sau mấy cuộc chuyển dời.
Một quãng ông gửi tranh tham gia mấy cuộc triển lãm, tưởng phải hội viên hội mỹ thuật nào đó, hóa ra chỉ làm vì mấy họa sĩ trẻ rủ rê. Một đám nhà văn hay ghé nhà nói chuyện chữ nghĩa này kia, tưởng ông trong hội của họ, hóa ra cũng không phải.
Rốt cuộc cậu không có tên trong một hội đoàn nào hết, ai đó tới nhà ông uống trà, ai đó mời ông tới những cuộc lễ lạt, chỉ vì ông biết nghề và chơi được. Đến hội người cao tuổi cậu cũng không thuộc về, nên cũng chẳng nhận được vòng hoa. Ở cái xứ này, cậu la cà khắp nơi mà lại rời ra chẳng dính vô đâu, đúng là khó chấp nhận được cú vỡ lẽ này.
“Cậu mình cũng họa sỹ tiếng tăm, chớ phải thường đâu”, một thằng cháu nói, trong lúc nhìn quanh cái rạp không hoa, không liễn trướng.
Bài điếu văn ngắn, đến ái ngại. Đứa cháu dạy ngữ văn được coi là nhiều chữ nhất, đã không thể làm đầy hai trang giấy học trò. Một đời người sao có thể gói được trong bao nhiêu chữ này thôi.
Mà chữ cũng ngập ngừng, ước lệ, những “có thể”, “trong khoảng”, “dường như”. Có thể cậu đã từng học trường vẽ, hoặc chỉ là được dạy nghề bởi một họa sỹ già thất chí nào đó, bởi chưa từng nghe cậu dự một cuộc họp lớp nào. Nghe đâu cậu lấy vợ trong một đám cưới tập thể sơ sài ở Sài Gòn, nhưng người phụ nữ nọ đã biến mất khi chưa về nhà chồng ra mắt.
Chừng như cậu có hồi biến mất, người ta đồn anh học trò đó lên rừng. Mớ giấy tờ ít ỏi cậu cất ở đầu giường thì chống đối nhau, giấy tờ ghi rõ sinh một chín năm mươi ba, ông lại cầm tinh con ngựa. Đứng tên trong giấy tờ nhà đất là cái tên lạ hoắc. Mọi thứ thật rõ ràng nhưng lại mịt mù, cùng lúc. Người duy nhất rõ về cậu là chính cậu, giờ đóng băng trong di ảnh, nhả khói thuốc ung dung.
Ông cậu vẫn xéo xắt với người ở lại tới cùng, đẩy họ vô tình thế mông lung. Cậu không thuộc về gia đình họ mạc, cảm giác đó thật rõ trong lòng con cháu. Buổi sáng đưa ông ra vườn sau bài điếu văn chóng vánh, cảm giác như đưa tiễn một người dưng.
Cậu, vẫn cái thế xỏ hai tay vô túi quần thủng thẳng đi bên rìa dòng tộc, như ở bên lề những tổ chức hội nọ đoàn kia. Nhưng khi người ta ném vốc đất đầu tiên xuống huyệt mộ, bỗng nhận ra cậu dành dụm trọn vẹn năm mươi chín năm cho thời khắc nhập cuộc này.
Đây mới là nơi chốn ông muốn thuộc về. Bọc người đàn ông bí hiểm lại trong lòng mình, đất cất lên lời ru im lặng. Không phân biệt từ đâu tới, thân phận ra sao, cũng không cần bài điếu văn sướt mướt mỹ từ.