Số ngày không khí tốt chỉ chiếm 15% trong năm
Ô nhiễm không khí là vấn đề "nóng hổi" của Hà Nội với chỉ số nồng độ trung bình PM2.5 cao vượt quá quy chuẩn cho phép (QCVN 05:2023) gấp 1,5-2 lần trong nhiều ngày. Đặc biệt trong những tháng mùa đông từ tháng 10 năm trước đến tháng 3-4 năm sau. Điển hình là mùa đông 2024 khi nhiều ngày chỉ số AQI cao ở mức đỏ, tím thậm chí nâu liên tục xuất hiện (theo báo cáo của Sở NN&MT Hà Nội và Báo cáo của Bộ NN&MT).
Theo số liệu năm 2019, tổng phát thải bụi PM 2.5 từ các nguồn là hơn 30.000 tấn, hơn 50% số này đến từ nguồn thải tại chỗ. Trong đó, hoạt động giao thông, bụi đường lớn nhất, chiếm 56%. Thành phố có 1,1 triệu xe ô tô, hơn 6,9 triệu xe máy, 70% trong số này đã sử dụng trên 10 năm, tạo ra nguồn phát thải lớn.

Ô nhiễm không khí bao trùm Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hiền.
Nguyên nhân của tình trạng này do đặc điểm khí hậu thời tiết của các tỉnh phía Bắc, vào mùa đông khi nhiệt độ giảm, gió lặng, ít mưa hạn chế độ khuyếch tán không khí làm cho nồng độ PM2.5 trong mùa đông có xu hướng đặc biệt cao. Bên cạnh đó, do Hà Nội chưa kiểm soát tốt các nguồn thải từ hoạt động giao thông (bao gồm từ ống xả xe và bụi đường), công nghiệp (đốt than, dầu diesel, đốt rác …), xây dựng (bụi xây dựng), nông nghiệp (Amonia sinh ra bụi thứ cấp từ các trang trại chăn nuôi, phân bón), đốt phụ phẩm nông nghiệp sau thu hoạch và đốt rác hở... và một số nguồn thải chính đã được chỉ ra trong khu vực Hà Nội và một số tỉnh lân cận.
TS Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam, đánh giá tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội rất đáng lo ngại khi chỉ số bụi mịn PM2.5 rất cao, vượt quá quy chuẩn cho phép 1,5-2 lần nhiều ngày trong năm; số ngày có chất lượng không khí tốt chỉ chiếm khoảng 15% số ngày trong năm.
Đối mặt với những thách thức nghiêm trọng, Hà Nội đang khẩn trương tìm kiếm giải pháp tối ưu để quản lý và giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí.
Thiếu dữ liệu để đưa ra các biện pháp hành động
TS Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cho biết: Hiện Hà Nội có quá ít số lượng các trạm quan trắc môi trường không khí cũng như các mô hình dự báo môi trường không khí.
“Thủ đô Hà Nội hiện có 35 trạm quan trắc môi trường không khí cố định và 1 xe quan trắc lưu động, công nghệ quan trắc vẫn chủ yếu thủ công trong khi Thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc có trên 1.000 trạm quan trắc tự động. Điều đó cho thấy hệ thống quan trắc của Hà Nội còn rất yếu kém và cần đầu tư theo hướng ứng dụng công nghệ”, GS.TS Chu Hoàng Hà nhận định.
GS.TS Chu Hoàng Hà cho rằng, ô nhiễm không khí đang là thách thức lớn nhất của Hà Nội. Để ứng phó, thành phố cần khẩn trương đầu tư vào hệ thống quan trắc, nâng cấp công nghệ nhằm nâng cao khả năng giám sát và đánh giá chất lượng không khí, từ đó hỗ trợ xây dựng và thực thi các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm.

Các tòa nhà tại quận Cầu Giấy (Hà Nội) chìm trong ô nhiễm không khí. Ảnh: Hoàng Hiền.
Đồng quan điểm, TS. Hoàng Dương Tùng cho rằng, tuy thời gian qua, Hà Nội đã triển khai nhiều biện pháp để giảm thiểu ô nhiễm không khí nhưng kết quả chưa cao vì nhiều lý do, trong đó có việc thiếu nguồn thông tin khoa học: “Chúng ta rất thiếu các thông tin định lượng về các nguồn gây ô nhiễm không khí để xác định các nguồn nào, ở đâu phát thải bao nhiêu để xây dựng các phương án giảm thiểu cụ thể ưu tiên tập trung có tác động lớn nhất trong việc giảm phát thải, những lợi ích mang lại và chi phí cần phải có để thực hiện. Ví dụ, đối với nguồn công nghiệp, chúng ta chưa có cơ sở dữ liệu hồ sơ môi trường các cơ sở công nghiệp tại Hà Nội, chưa có kiểm kê phát thải, không có số liệu sử dụng than tại các cơ sở sản xuất…”, TS. Hoàng Dương Tùng nhấn mạnh.
Theo ông, để cải thiện chất lượng không khí tại Thủ đô, cần coi bảo vệ môi trường không khí là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Hà Nội. Trong đó, thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ về dữ liệu, đưa chỉ tiêu chất lượng không khí vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm của thành phố, coi đó là công cụ chính để quản lý chất lượng không khí.
Để thực hiện được điều này, cần sử dụng cách tiếp cận dựa trên chứng cứ khoa học (nền tảng số) khi xem xét các vấn đề và đề ra các chính sách giải pháp ưu tiên phù hợp. Ưu tiên xây dựng hạ tầng số như: cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin các nguồn phát thải, hệ thống báo cáo tự động,… với yêu cầu đảm bảo chất lượng số liệu và công khai số liệu. Sử dụng mạnh mẽ các công cụ giải pháp IOT mới trong việc quan trắc, giám sát ô nhiễm, tăng cường áp dụng AI, Big data trong quản lý môi trường không khí.
Bên cạnh đó, cần bổ sung các trạm quan trắc không khí xung quanh trong nội thành và một số huyện ngoại thành; thí điểm triển khai hệ thống quan trắc cảm biến trên địa bàn toàn thành phố để phát hiện các điểm nóng; thí điểm sửa đổi cơ chế tài chính để duy trì hệ thống quan trắc liên tục, thường xuyên; Công khai số liệu quan trắc; Xây dựng công cụ dự báo chất lượng không khí.