| Hotline: 0983.970.780

Bón phân Lâm Thao cho cà phê sau mùa khô hạn

Thứ Ba 14/04/2015 , 06:08 (GMT+7)

Để đảm bảo hiệu quả của việc sử dụng phân vô cơ đa lượng thì cần điều chỉnh lượng phân đạm, kali và lân đối với cà phê vối cho phù hợp với mức năng suất đạt được.

1. Nhu cầu dinh dưỡng và tình hình sử dụng phân bón

Cà phê có tên khoa học là Coffea sp. Là cây công nghiệp nhiệt đới lâu năm, họ Cà phê Rubiaceae. Có 2 loài phổ biến ở nước ta là cà phê vối (Coffea canephora Piere hay Coffea robusta linden) và cà phê chè (Coffea arabica Liné).

Cà phê có khả năng cho năng suất rất cao nếu thỏa mãn các điều kiện sinh thái, đất đai và đầu tư phân bón, tưới nước tốt. Trong cùng điều kiện sinh thái, những vườn được đầu tư phân bón đầy đủ, hợp lý sẽ cho năng suất cao hơn, hay nói cách khác những vườn cà phê cho năng suất cao thì cần lượng dinh dưỡng nhiều hơn.

Trong 1 tấn cà phê nhân có chứa từ 35 - 40 kg N; 6 - 8 kg P2O5; 40 - 45 kg K2O và các nguyên tố dinh dưỡng trung, vi lượng khác. Tuy nhiên, nông dân trồng cà phê sử dụng phân bón không cân đối về tỷ lệ, số lượng quá cao so với năng suất cần đạt, gây lãng phí, tăng chi phí, giảm chất lượng cà phê và ô nhiễm môi trường.

Như vậy để đảm bảo hiệu quả của việc sử dụng phân vô cơ đa lượng thì cần điều chỉnh lượng phân đạm, kali và lân đối với cà phê vối cho phù hợp với mức năng suất đạt được; đối với cà phê chè ngoài việc điều chỉnh lượng phân đạm, lân, kali xuống mức phù hợp thì cần điều chỉnh về tỷ lệ cân đối N : P2O5 : K2O và bổ sung đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng trung, vi lượng.

Tổng hợp các kết quả nghiên cứu ở Tây Nguyên cho thấy, đối với cả 2 loài cà phê vối và chè thì tỷ lệ trung bình N : P : K là 2 : 1 : 2.

Kết quả điều tra cho thấy đại đa số nông dân trồng cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên (92,6%) sử dụng phân hỗn hợp NPK; khoảng 40,8 - 67,4% hộ sử dụng các loại phân đơn như SA, urê, lân nung chảy, supe lân, kali clorua.

2. Các đợt bón phân

Tùy theo điều kiện thời tiết của từng vùng mà các đợt bón có thể vào các tháng khác nhau giữa các vùng, song các đợt bón phân nhằm vào các thời điểm sau:

Đợt 1: Bón trong mùa khô, tăng cường dinh dưỡng cho vườn cây sau khi thu hoạch, cắt cành tạo hình và cà phê đã ra đợt hoa đầu tiên, kích thích phát sinh cành và hỗ trợ đợt hoa thứ 2. Đợt 2: Khi mùa mưa bắt đầu và đất đã đủ ẩm. Đợt 3, 4: Cách đợt trước từ 1,5 -2 tháng.

Trong điều kiện khí hậu ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ, các đợt bón phân cần tiến hành vào các thời điểm như sau:

Đợt 1: Lần tưới thứ 2 (tháng 1 - 2); đợt 2: Đầu mùa mưa (tháng 4 -5); đợt 3: Giữa mùa mưa (tháng 6 - 7); đợt 4: Cuối mùa mưa (tháng 8 - 9).

3. Phương pháp bón

Bón trực tiếp vào đất, trước khi bón phân phải làm sạch cỏ dại.

Đối với cà phê ở năm trồng mới, phân chuồng được bón lót cùng với phân NPK theo phương pháp rạch rãnh quanh tán, cách gốc 15 - 20 cm, bón phân, sau đó lấp đất sâu 3 - 5 cm.

Đối với cà phê năm thứ 2 trở đi, bón rải theo hình vành khăn hoặc hai bên rộng từ 15 - 20 cm theo mép tán lá, xới trộn đều với lớp đất mặt và lấp đất.

Lưu ý: Để bảo toàn phân bón (không bị bay hơi khi gặp nắng, không xói mòn khi gặp mưa to, đất dốc) và cà phê không bị cháy lá (do phân bốc hơi) đồng thời cung cấp dinh dưỡng cho cà phê kịp thời, cần bón phân đúng thời kỳ khi đất đã đủ ẩm bằng cách rạch rãnh, bón phân, lấp đất. Không nên chờ bón theo mưa!.

4. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cà phê (kg/ha)

Cà phê vối mật độ 1.110 - 1.330 cây/ha; cà phê chè 4.440 - 5.000 cây/ha.

4.1. Giai đoạn kiến thiết cơ bản

a. Bón lót khi trồng:

Bón cho 1 hố: 15 ÷ 20 kg phân chuồng, 1,0 ÷ 1,5 kg NPK-S*M1 5.10.3-8 (hoặc 0,7 ÷ 0,9 kg lân nung chảy, 0,1 ÷ 0,2 kg urê). Nếu quy 1 hecta thì tương đương 25 - 30 tấn phân chuồng, 1.250 ÷ 1.800 kg NPK-S*M1 5.10.3-8 (hoặc 900 - 1.200 kg lân nung chảy, 130 ÷ 250 kg urê).

b. Bón thúc:

- Trong từng năm phải bón các loại phân NPK-S có tỷ lệ khác nhau để có đủ hàm lượng dinh dưỡng NPK-S cho cà phê theo tuổi và dao động được tính cho cà phê vối và cà phê chè như sau:

- Năm 1: Sử dụng NPK-S10.10.5-7, lượng bón 1.200 ÷ 1.500 kg, chia đều làm 4 đợt.

- Năm 2: Sử dụng NPK-S10.10.5-7, lượng bón 2.000 ÷ 2.500 kg, chia đều làm 4 đợt.

- Năm 3: Sử dụng NPK-S10.10.5-7, lượng bón 2.500 ÷ 3.000 kg, chia đều làm 4 đợt.

4.2 Giai đoạn cà phê kinh doanh và tu bổ

- Đối với cà phê vối để đạt năng suất 3,5 ÷ 4,0 tấn nhân/ha và cà phê chè 2,5 - 3,0 tấn nhân/ha hàng năm sử dụng phân bón NPK-S*M1 12.5.10-14 để bón 300 ÷ 400 kg vào đợt 1 + 800 ÷ 1.000 kg vào đợt 2 + 1.000 ÷ 1.200 kg vào đợt 3 và 700 ÷ 800kg vào đợt 4.

- Có thể tăng hoặc giảm 10 - 15% lượng phân bón trên cho mỗi tấn cà phê nhân.

Cty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã và đang kết hợp với Viện Thổ nhưỡng Nông hóa xây dựng các quy trình bón phân NPK-S đồng bộ khép kín các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng, trong đó có cà phê và đã được thực hiện ở các địa phương để đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.

Để khắc phục các thiệt hại do thời tiết khô, hạn năm nay chúc nông dân trồng cà phê sử dụng phân bón Lâm Thao hợp lý và cân đối để có thu nhập cao.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm