| Hotline: 0983.970.780

Để sản xuất cánh đồng lớn bền vững

Thứ Sáu 18/07/2014 , 08:11 (GMT+7)

Tổ chức mở rộng SX cánh đồng lớn (CĐL)  đạt trên 50% diện tích đất trồng lúa vùng ĐBSCL, trong đó hơn 90% diện tích để XK gạo là mục tiêu "khát vọng" của Cty CP Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS).

Tại buổi lễ ký kết chương trình hợp tác chiến lược giữa AGPPS với Viện Bảo vệ thực vật và khánh thành Trung tâm Nghiên cứu SX sản phẩm sinh học diễn ra hôm 8/7/2014, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch HĐQT AGPPS một lần nữa khẳng định quyết tâm đó.

Điển hình

Với phương châm “trước là phục vụ, sau là kiếm ăn”, nhiều năm qua, AGPPS luôn gắn bó với nhà nông. Vừa qua, AGPPS đã phát hành hơn 1,8 triệu cổ phiếu trị giá hơn 56 tỷ đồng cho 1.724 nông dân miền Tây để gắn bó lợi ích sống còn với Cty, đặc biệt là tham gia CĐL, biến nông dân thành cổ đông Cty, góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân nông nghiệp tương lai.

Quá trình chuyển hóa từ “Cty bán thuốc sâu” sang DN nông nghiệp nổi tiếng của AGPPS cho thấy bước chuyển quan trọng của SXKD nông nghiệp ở ĐBSCL. Từ cánh đồng mẫu lớn của AGPPS năm 2007 chỉ 200 ha đã phát triển mạnh, không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường, mà quan trọng hơn là đã tạo ra mô hình tổ chức SX mới gắn kết thị trường, khắc phục tình trạng SX nhỏ lẻ, manh mún.

Liên kết chặt chẽ “4 nhà” trong SX, chế biến và tiêu thụ, từng bước đưa nông nghiệp ĐBSCL lên SX hàng hóa lớn, hiện đại.

CĐL của AGPPS đã trở thành hiện tượng trong nông nghiệp, được nhân rộng ở nhiều tỉnh, thành, không chỉ ở vùng ĐBSCL, mà còn “tiến ra Bắc”, với tổng diện tích đến nay đạt khoảng 134.000 ha.

Còn đó nỗi lo

Nhiều hội nghị, hội thảo về CĐL đã được tổ chức. Mô hình này trở thành “nguồn cung thực tiễn” sinh động để các cơ quan Trung ương và địa phương hoạch định cơ chế, chính sách hỗ trợ, tổ chức triển khai thực hiện.

 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 62/2013/QĐ-TTg, Bộ NN-PTNT đã ban hành Thông tư 15/2014/TT-BNNPTNT về chính sách khuyến khích hợp tác hỗ trợ liên kết SX gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL.

Tuy nhiên, thực tiễn vừa qua ở ĐBSCL cho thấy SX lúa gạo trong CĐL vẫn tồn tại nhiều bất ổn, cần được tiếp tục tháo gỡ để hoàn thiện. Những thách thức và vướng mắc của mô hình này vượt ngoài tầm nỗ lực của một DN như AGPPS hay các DN làm nông nghiệp. Nó đang đòi hỏi sự chuyển đổi căn bản, toàn diện và cần những cải cách mạnh mẽ hơn nữa từ cơ chế, chính sách đồng bộ gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh và thu nhập cho nông dân và xây dựng NTM.

CĐL đang là một mô hình tốt, nhưng vẫn còn đó nỗi lo lớn, đặt ra trách nhiệm không chỉ của DN, nông dân mà đang đòi hỏi các cơ chế, chính sách mới hơn, mạnh mẽ hơn từ các cơ quan hoạch định chính sách và thực thi để tháo gỡ, mang lại hiệu quả cao hơn.

Những bất ổn nội tại của CĐL là liên kết giữa nông dân và DN vẫn lỏng lẻo. Chuyện “bẻ kèo” khi thị trường có biến động đã diễn ra ở cả 2 phía doanh DN lẫn nông dân mà bên thiệt hại không thể làm gì được, bởi hiện không có quy định pháp luật cụ thể để xử lý. DN đầu tư, ứng giống cho nông dân khi bị “xé hợp đồng” không biết kêu ai.

Ngược lại, để đáp ứng điều kiện được XK gạo, có xu hướng DN hợp thức hóa việc liên kết xây dựng vùng nguyên liệu hơn là quyết tâm hợp tác thực sự, DN “quay lưng” với nông dân khi giá gạo xuống thấp. Thực tế đang cần một cơ chế pháp lý và xử lý theo luật hợp đồng liên kết để bảo vệ các quan hệ mới một cách hữu hiệu qua CĐL. Nhìn rộng ra là cơ chế pháp lý về liên kết vùng ĐBSCL, trong đó có liên kết DN và nông dân.

Do tính chất nhạy cảm của vấn đề an ninh lương thực nên DN đang bị đặt vào tình thế ngày càng khó khăn khi phải theo đuổi cả hai mục tiêu thương mại và xã hội, phục vụ và kiếm lời mà họ lại chưa được chuẩn bị tốt để làm tốt những mục tiêu này.

Thương mại hóa ngành SX lúa gạo, đặc biệt là hiện đại hóa chuỗi giá trị hạt gạo, bao gồm đổi mới thể chế, cải tiến công nghệ, ứng dụng ngày càng nhiều hơn các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, hướng đến sản xuất bền vững hơn với môi trường, chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn. Khả năng cạnh tranh của ngành phải xây dựng trên cơ sở hiệu quả và đổi mới, chứ không phải trên thù lao giá rẻ cho nông dân hay phong trào xây dựng cánh đồng lớn.

Những thách thức lớn hơn từ đồng ruộng mà CĐL đang đối mặt là mâu thuẫn giữa mục tiêu xây dựng đội ngũ nông dân hiện đại, chuyên nghiệp với thực trạng thu nhập thấp của lao động nông nghiệp hiện nay.

Yêu cầu đòi hỏi mỗi tiểu vùng trong vùng ĐBSCL, tùy điều kiện tự nhiên, sinh thái, trình độ phát triển SX và quy mô phát triển thị trường, cần có quy hoạch ưu tiên sản phẩm lợi thế để thúc đẩy tái cơ cấu không chỉ về sản lượng mà về giá trị, thu nhập của người dân.

Cần áp dụng phân vùng theo không gian, có chính sách hỗ trợ khác nhau ở “vùng lõi”, “vành đai” và các khu vực trồng lúa bình thường khác, có xem xét mục tiêu SX lúa cho an ninh lương thực hay lúa hàng hóa.

Điều quan trọng hơn là phải tách biệt hẳn các hệ thống và chiến lược XK gạo mang “tính chính trị - xã hội” và tính thương mại để có chính sách rõ ràng, phân biệt giữa hai mục tiêu để tăng cường hỗ trợ nhóm thực hiện mục tiêu chính trị - xã hội, giải phóng một phần gánh nặng để tăng lợi nhuận, đồng thời nâng cao trách nhiệm cho nhóm thương mại. Những chuyển đổi này rất cần cho việc xây dựng và phát triển bền vững CĐL.

(Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ)

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm