| Hotline: 0983.970.780

Lúa thuần Sơn Lâm 1

Thứ Ba 01/10/2013 , 10:13 (GMT+7)

Giống lúa Sơn Lâm 1 (TQ 10, Vĩnh Phúc 1) đã tham gia trồng khảo nghiệm qua 3 vụ (vụ xuân, vụ mùa 2012 và vụ xuân 2013) trong mạng lưới khảo nghiệm Quốc gia.

Giống lúa Sơn Lâm 1 (TQ 10, Vĩnh Phúc 1) đã tham gia trồng khảo nghiệm qua 3 vụ (vụ xuân, vụ mùa 2012 và vụ xuân 2013) trong mạng lưới khảo nghiệm Quốc gia. Đồng tác giả là GS.TSKH Trần Duy Quý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hợp tác KHKT Châu Á - Thái Bình Dương và KS Bùi Huy Thủy, Viện Di truyền nông nghiệp. Công ty Cổ phần Sơn Lâm là đơn vị độc quyền SXKD.

Trong các thí nghiệm và khảo nghiệm của tác giả giống có tên là TQ 10. Trong mạng lưới khảo kiểm nghiệm giống Quốc gia giống có tên là Vĩnh Phúc 1. Sơn Lâm 1 là giống lúa thuần, chất lượng gạo cao, cảm ôn, có thể gieo trồng 2 vụ/năm (xuân muộn và mùa sớm).

Thời gian sinh trưởng vụ xuân 125 - 135 ngày, vụ mùa 105 - 110 ngày. Chiều cao cây 105 - 110 cm, đẻ nhánh khá, trổ tập trung, bộ lá đứng màu xanh. Bông dài 20 - 25 cm, số hạt chắc/bông: 110 - 150 hạt, tỷ lệ lép thấp 11 - 13%, khối lượng 1.000 hạt: 21 - 23 gram, hạt thóc thon nhỏ dài màu vàng sáng. Chất lượng gạo có mùi thơm nhẹ, cơm dẻo, tương đương gạo Bắc thơm 7.


Lúa thuần Sơn Lâm 1 trên đồng đất xã Đại Hưng (Mỹ Đức, Hà Nội)

Năng suất trung bình 50 - 55 tạ/ha, điều kiện thâm canh cao có thể đạt năng suất 65 - 70 tạ/ha. Khả năng chịu rét và chống đổ khá, cứng cây hơn Bắc thơm 7. Chống chịu sâu bệnh khá, độ thuần đồng ruộng cao. Thích hợp chân đất vàn, vàn thấp, chủ động tưới tiêu, thích hợp với cơ cấu xuân muộn - mùa sớm như giống Bắc thơm 7. Được Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng Quốc gia đánh giá là giống lúa có triển vọng.

Kỹ thuật canh tác:

1. Thời vụ:

- Vụ xuân gieo mạ 20/1 - 5/2 (trà xuân muộn), cấy trong tháng 2.

- Vụ mùa gieo mạ 5/6 - 25/6 (mùa sớm và mùa trung), cấy 25/6 - 5/7.

2. Kỹ thuật làm mạ:

- Lượng thóc giống cho 1 sào Bắc Bộ (360 m2) từ 1,0 - 1,5 kg.

- Ngâm ủ: Thời gian ngâm 48 - 60 giờ hạt giống liền vụ, có xử lý thuốc kích thích nảy mần, 36 - 48 giờ đối với hạt giống qua vụ; có thay nước 2 - 3 lần. không để ngâm trong nước quá chua. Sau đó đãi sạch để ráo nước, đem ủ bình thường như các giống lúa thuần khác. Khi mạ gai dứa (mầm và rễ mọc đều) đem gieo.

- Tuổi mạ: Nên cấy tuổi mạ 4 - 5,5 lá đối với mạ dược, 2,5 - 3 lá đối với mạ dày xúc, mạ nền.

3. Kỹ thuật cấy và chăm sóc:

- Ruộng cấy phải được cày bừa kỹ, san phẳng và làm sạch cỏ dại.

- Cấy nông tay, mật độ 50 - 55 khóm/m2, 2 - 3 dảnh/khóm.

- Phân bón: Tuỳ điều kiện thâm canh có thể bón (cho 1 sào = 360 m2): đạm urê 7 - 10 kg, lân supe 15 - 20 kg, kali 3 - 5 kg. Nếu ruộng chua cần bón thêm 10 - 15 kg vôi bột.

Bón lót toàn bộ phân chuồng + lân supe + 40% đạm urê + 30% kali.

Bón thúc (sau cấy 10 - 15 ngày, khi lúa mở lá) 50% đạm urê.

Bón đón đòng (khi lúa đứng cái) 10% đạm urê + 70% kali.

4. Phòng trừ sâu bệnh:

Như các giống lúa đang gieo trồng đại trà. Giai đoạn lúa hồi xanh sau khi cấy, chú ý phòng bọ trĩ, ròi đục nõn và ốc bươu vàng. Giai đoạn lúa đứng cái, làm đòng và trổ, chú ý phòng trừ sâu cuốn lá, bệnh khô vằn, sâu đục thân và chuột.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm