| Hotline: 0983.970.780

Kỷ niệm 70 năm Điện ảnh Bưng Biền - Đồng Tháp (15/10/1947- 15/10/2017):

Một tầm nhìn văn hóa

Thứ Bảy 14/10/2017 , 09:01 (GMT+7)

Ngày nay phương tiện Nghe - Nhìn đang thống soái các lĩnh vực truyền thông nghệ thuật, lại được hỗ trợ bởi sự bùng nổ của cuộc cách mạng kỹ thuật số, khiến đông đảo bạn trẻ chắc hẳn sẽ ngạc nhiên khi nghe chúng ta kể lại câu chuyện cổ tích có một không hai về sự ra đời của nền điện ảnh Bưng Biền - Đồng Tháp…

Lùi về quá khứ 70 năm trước, vào năm 1947 ấy, tại Sài Gòn, trai thanh gái lịch chắc không xa lạ gì với nhiếp ảnh, phim ảnh. Nhưng cái quyền thưởng ngoạn ấy thuộc đẳng cấp sang giàu. Còn đại bộ phận người nông dân ở vùng sông nước miền Tây, quanh năm vất vả kiếm sống bằng hạt lúa, con cá hẳn họ chưa bao giờ biết tới có chuyện hình người in trên miếng giấy mà giống y trang; càng không hình dung nổi có gió thổi qua rặng cây, con đò lướt đi trên kênh rạch, có người “động đậy”… trên một tấm vải căng rộng.

08-51-19_trng_29
Làm phim trong rừng

Có trở lại từ phần gốc gác này mới thấy hết được ý nghĩa lớn lao của việc Chính quyền kháng chiến non trẻ tại Nam Bộ đã sớm biết mang Nhiếp ảnh, Điện ảnh về với những người cầm súng và đông đảo quần chúng cách mạng. Trong những trang hồi ký của mình, đạo diễn Mai Lộc ghi lại: “Chính ủy Nguyễn Văn Vịnh và Tư Lệnh Trần Văn Trà rất yêu văn nghệ . Chính hai đồng chí ấy đã nhiệt tình ủng hộ việc thành lập Điện ảnh Khu 8 và sau này luôn trực tiếp chỉ thị giúp đỡ mọi hoạt động làm phim, chiếu phim”.

Đạo diễn Khương Mễ cũng kể nhiều chuyện cảm động về tầm nhìn xa, trông rộng của đồng chí Lê Duẩn, lúc đó là người lãnh đạo Trung ương Cục đã nhiệt tình ủng hộ việc thành lập tổ Điện ảnh khu 8. Đồng chí Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ quyết trích một số tiền lớn tới 50.000 đồng giúp Điện ảnh Khu 8 mua máy quay, phim, thuốc in tráng phim…

Những quyết định như vậy-xin nhắc lại, đã diễn ra vào năm 1947-cách nay đã tròn 70 năm. Kháng chiến chống Pháp vừa mới bắt đầu. Chiến sỹ Tiểu đoàn 307 anh hùng vẫn chỉ được trang bị súng trường là chủ yếu, vẫn ngủ nóp, chống lại những cơn sốt rét bằng viên ký ninh hòa vào một bát nước chia nhau uống. Bác sỹ Phạm Ngọc Thạch còn đang mày mò thể nghiệm dùng nhau bà đẻ chế biến thành chất bổ philatov cấy vào bắp chân, bắp tay anh bộ đội, để tiếp thêm sức lực cho anh…

Trong hoàn cảnh khó khăn, nhiều thử thách ấy, cảm động biết bao khi những người lãnh đạo cuộc kháng chiến đã thấu hiểu, nhìn ra sức mạnh tuyên truyền, cổ súy sâu rộng, lan tỏa của chính điện ảnh –một ngành nghệ thuật vẫn còn như “ một trò chơi sang” bó hẹp phạm vi hoạt động của mình ở chốn thành thi. Cũng ngay từ những ngày xa xưa đó điện ảnh đã được nâng tầm thành món ăn tinh thần-văn hóa không thể thiếu đối với chiến sỹ, đồng bào. Cũng cần thiết, cũng cấp bách như cơm gạo, súng đạn, thuốc men trong cuộc chiến đấu chung. Chính với việc ra đời của Điện ảnh khu 8- cơ sở làm phim đầu tiên trong cả nước - điều này không chỉ chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng mà còn là sự thấu hiểu văn hóa, nghệ thuật của những bộ óc mang tầm chiến lược

Nói tới sự ra đời và hình thành của Điện ảnh khu 8, cũng phải nói ngay tới tính lãng mạn của những ai dám nghĩ dám làm, trong đầu dào dạt những ước mơ quyết chí chinh phục một ngành nghệ thuật còn khá non trẻ, nhưng đầy sức hấp dẫn. Không phải vô cớ, vào năm 1995- trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày ra đời bộ môn nghệ thuật thứ 7, tại Paris-thủ đô nước Pháp, nhiều nhà điện ảnh thế giới khi biết tới hoạt động của Điện ảnh Khu 8, khi đã tận mắt xem những bộ phim “Trận Mộc hóa’, “Trận Giồng trôm”, “Chiến dịch Cầu kè-Trà Vinh”, “Công Binh xưởng trong rừng”… đã đồng thanh nhất trí gọi Điện ảnh khu 8 là “Điện ảnh Luymier –Bưng Biền”.

08-51-19_trng_28
Hình ảnh trong bộ phim “Chiến dịch Cầu Kè”

Tức các nhà điện ảnh thế giới đã đánh giá cao sự ra đời của một nền điện ảnh ngay trong khói lửa chiến tranh, hệt như khám phá ra điện ảnh lần đầu của hai anh em ông tổ điện ảnh Luymier. Làm sao có thể hình dung nổi, giữa kênh rạch nước nửa ngọt nửa mặn, với những con ghe nay đây mai đó, không điện, không nước sạch mà dám nghĩ tới việc in tráng phim. Thiếu phim sống, thiếu thuốc in tráng, thiếu nhiều phương tiện khác nữa thì vượt qua đồn bốt địch băng vào Sài gòn mua sắm, dù mỗi chuyến đi có thể phải đổi bằng chính tánh mạng của mình. Làm sao mà không ngạc nhiên ngay ở thời kỳ đó Điện ảnh khu 8 đã dám thể nghiệm việc làm phim truyện, để lưu lại đến hôm nay những thước phim mô tả một tên lính Pháp bị nhốt vào dưới đáy của một chiếc lọ (phim “Đáng đời đế quốc”).

Và đẹp, và thơ mộng, và lung linh, huyền ảo nữa chứ khung cảnh những buổi chiếu phim của Điện ảnh khu 8 vào những năm tháng đó. Mỗi tối chiếu phim là một ngày hội. Người ta đi bộ, chèo ghe chèo thuyền cả 4, 5 tiếng đồng hồ để được xem phim. Phim được chiếu cho bộ đội xem ngay trước giờ xuất kích đánh đồn. Phim được chiếu ngay tại làng xóm vừa bị máy bay địch oanh tạc …

Ông Phan Văn Trai, người phụ trách máy chiếu phim, làm luôn cả việc thuyết minh phim của Điện ảnh khu 8 nhớ lại: “Nơi đặt máy chiếu luôn luôn chất đầy nước ngọt, quả trái của bà con tới xem phim mang tặng. Những chiếc ghe từ những hòn cù lao rất xa kéo tới châu mũi vào nhau. Tiếng cười, tiếng nói rổn rảng. Và khi tấm vải chiếu phim trắng toát được căng lên giữa những cây tràm, cây đước, mọi tiếng lao xao, cười đùa bỗng lặng ngắt. Tựa như bà con cô bác đang chờ đợi một phép màu nhiệm gì sẽ diễn ra từ tấm vài trắng kia. Sau buổi chiếu, theo ghe theo thuyền về là những câu chuyện bàn tán sôi nổi, râm ran không dứt của bà con về những gì đã thấy trên phim”.

Những bộ phim đầu tiên mang chất phóng sự-tài liệu được kể tên trong cuốn Lịch sử Điện ảnh Cách mạng Việt Nam hiện nay như: “Điều chế thuốc Philatop”, “Công binh xưởng trong rừng”…mỗi phim vẻn vẹn lướt qua màn ảnh nhiều lắm là 3 tới 5 phút. Nhưng vì sao những sản phẩm điện ảnh sơ khai đó lại có sức cuốn hút,hấp dẫn, gây nên những hiệu quả cảm xúc và nhận thức trong lòng chiến sỹ, đồng bào mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục đến như vậy? Câu trả lời không khó tìm. Bởi điện ảnh cách mạng tiếp cận với người xem trước hết và chủ yếu bằng thể loại phim “Người thật- Việc thật”. Còn gì cảm động hơn khi bà con cô bác xem phim vỗ tay, reo to thích thú khi nhận ra thằng Ba, Thằng Tư lính Tiểu đoàn 307 vừa đóng quân ở làng mình, xóm mình tháng trước , lúc này trên màn ảnh đang xông lên bất chấp hiểm nguy trong trận đánh chặn một đoàn xe vận tải của Pháp.

Làm sao không vui, không phấn khởi được khi nhận ra dì Năm, dì Bảy làng mình, xóm mình đang gánh cơm, gánh những trái mít, trái soài đi tiếp tế cho các đơn vị bộ đội; những Út Năm, Út Sáu với chiếc túi cứu thương bên mình, băng băng theo bén gót người chiến sỹ sẵn sàng băng bó vết thương hoặc dìu đỡ, cáng tải các anh về những trạm cấp cứu tiền phương. Làm sao không phấn chấn, hoan hỉ được khi tận mắt chứng kiến những tên lính “mắt xanh, mũi lõ” mới mấy hôm trước từ đồn bót hung hăng mở cuộc càn vào làng xóm, hiếp đáp người, thiêu trụi nhà cửa, vườn tược, nay đang cúi gầm mặt lê gót bước đi trước mũi súng của chiến sỹ ta..

Thể loại phim Phóng sự-Tài Liêu của Điện ảnh cách Mạng Việt Nam gặt hái những thành công, gây tiếng vang ra ngoài biên giới trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ chính là bắt nguồn từ thứ phim “Người thật- Việc thật” mà Điện ảnh khu 8 đã đặt những viên gạch đầu tiên. Đáng tiếc rằng, bước qua cơ chế thị trường phim “Người thật - Việc thật”- tức thể loại phim Phóng sự-Tài liệu không còn giữ được vị trí và tác dụng như xưa, cho dù ngày hôm nay điều đáng biểu dương, đề cao và cái đáng phê phán, lên án ngày càng đan xen nhau một cách tinh vi, không dễ gì nhận biết.

Có một đặc điểm, cũng là một truyền thống vẻ vang nữa của Điện ảnh Khu 8 còn ít được nhắc tới: Điện ảnh khu 8 là một đơn vị làm phim trực thuộc Phòng Chính trị, Bộ Tư Lệnh Khu 8, còn “những nhà điện ảnh thoạt kỳ thủy” như các ông Mai Lộc, Khương Mễ, Vũ Sơn, Lý Cương, An Sơn, Phan Trọng Quỳ, Vũ Ba… chính là những người lính. Họ được bà con cô bác thương yêu như ruột rà. Họ quá rành rõ, quen thuộc với kham khổ, với trận mạc.Bám sát diễn tiến trận đánh, bén gót đồng đội trong thử thách tử sinh - đó như là điều tự nhiên đối với những người làm phim khu 8. Làm phim để chiếu cho bộ đội và đồng bào xem– đó cũng là một điều tự nhiên nữa. Những gì diễn ra trên màn ảnh phải chân thật, phải biểu dương được cái cao đẹp, cái anh hùng để người xem phim làm theo, noi theo…

08-51-19_trng_30
Nhà quay phim Khương Mễ thời kháng chiến chống Pháp

Những điều tưởng đâu như tự thân, vốn có ấy, hình thành trong hoạt động làm phim của Điện ảnh khu 8 chính là đã tạo nên diện mạo tinh thần, những chuẩn mực thiêng liêng, những quy chuẩn phải tuân thủ trong suốt mấy chục năm sau này của Nền Điện ảnh Cách mạng Việt Nam nói riêng, của nền Văn hóa –Văn nghệ Việt Nam nói chung. Phim ảnh phải làm được cả 3 chức năng song hành : Nhận thức -Giáo dục- Thẩm mỹ. Phim ảnh phải trong sạch, lành mạnh, phải hướng tới những giá trị nhân văn-nhân bản. Phim ảnh phải bắt rễ vào cội nguồn những giá trị văn hóa, đạo lý ngàn đời của cha ông. Và người làm phim luôn luôn phải bám sát đời sống, bám sát trận mạc; khi xung trận phải can trường, dũng cảm, ngang tầm đứng với người chiến sỹ cầm súng.

Điều thật đáng suy nghĩ khi chính trong những ngày chúng ta đang hướng tới Lễ kỷ niệm 70 năm ngày ra đời Điện ảnh Bưng Biền-Đồng tháp, tại Hà Nội Hãng phim truyện VN tại số 4 Thụy Khuê -“chiếc nôi” của ngành phim truyện nước ta, sau cổ phần hóa đang được “tẩy rửa” mọi dấu tích điện ảnh, để nơi đây biến thành chỗ kinh doanh mặt hàngbún phở, rượu bia…

Cuối tháng 11 tới, tại Đà Nẵng, Liên hoan phim VN sẽ diễn ra. Trong chương trình phim dự thi giành giải- lần đầu tiên- không có phim nào làm theo đồng tiền cung cấp của Nhà nước. Xã hội hóa việc sản xuất phim là yêu cầu không tránh khỏi. Nhưng liệu rằng chúng ta có buông lơi điện ảnh không đây; có xem nhẹ sức mạnh riêng, mối tác động riêng của phương tiện nghệ thuật này, trong khi chủ trương “ cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” ngày càng chứng minh tầm quan trọng , sự cấp thiết của mình trong lĩnh vực tinh thần- văn hóa. Thành thử một câu hỏi không thể không nảy sinh: Một khởi đầu hoành tráng, huy hoàng, rực rỡ như sự ra đời của Điện ảnh khu 8, chả lẽ lại có một kết thúc như những gì đang diễn ra với Nền Điện ảnh Dân tộc, Cách mạng nước ta sao đây?

(Kiến thức gia đình số 40)

Xem thêm
Diễn viên Midu sẽ tổ chức đám cưới vào tháng 6

Diễn viên Midu vừa thông báo sẽ tổ chức đám cưới vào tháng 6/2024. Cô cũng đã gửi thiệp đến những người bạn thân thiết về sự kiện trọng đại này.

Real Madrid tiến sát ngôi vô địch sau trận siêu kinh điển

Dù bị Barcelona 2 lần dẫn trước nhưng Real Madrid vẫn lội ngược dòng thành công để thắng 3-2 và tiến sát ngôi vô địch La Liga.

Nhận định U23 Việt Nam vs U23 Iraq: Vượt lên chính mình

Trận đấu giữa U23 Việt Nam vs U23 Iraq trong khuôn khổ vòng tứ kết giải U23 Châu Á 2024 sẽ diễn ra vào lúc 00h30 ngày 27/4/2024 trận sân vận động Al Janoub.

Cây phong lá đỏ 115 tuổi hút du khách ở Sa Pa

LÀO CAI Cây phong lá đỏ ở Sa Pa thu hút nườm nượp du khách đến chiêm ngưỡng, chụp ảnh.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm