| Hotline: 0983.970.780

Nguyễn Xuân Thủy, người kể chuyện Trường Sa

Thứ Hai 03/09/2012 , 14:04 (GMT+7)

Hai năm sống ở Trường Sa Lớn với tư cách người lính, Nguyễn Xuân Thủy đã góp cho văn học Việt Nam một tiểu thuyết “Biển xanh màu lá” và cuốn truyện thiếu nhi “Tôi kể em nghe chuyện Trường Sa”.

Nhà văn Nguyễn Xuân Thủy
Hai năm sống ở Trường Sa Lớn với tư cách người lính, Nguyễn Xuân Thủy đã góp cho văn học Việt Nam một tiểu thuyết  “Biển xanh màu lá” và cuốn truyện thiếu nhi “Tôi kể em nghe chuyện Trường Sa”. Với Nguyễn Xuân Thủy, Trường Sa là một miền ký ức thiêng liêng.

Người ta nói rằng, trong làng văn, sau nhà thơ Trần Đăng Khoa thì Nguyễn Xuân Thủy là người thứ 2 viết về biển đảo với tư cách là người lính, được trải nghiệm cuộc sống của người lính?

Viết về Trường Sa mà có trải nghiệm của người lính ở đảo thì chỉ có Trần Đăng Khoa và Nguyễn Xuân Thủy, đó là  điều tôi có thể khẳng định. Tôi có cơ hội là người lính sống ở Trường Sa Lớn hai năm (2000-2001). Năm 2008, quay lại Trường Sa với tư cách người làm báo. Khi đó, tiểu thuyết “Biển xanh màu lá” cũng vừa in xong. Chuyến ra đảo ấy tôi mang được cuốn tiểu thuyết ra tặng bộ đội. 

 Nhiều người hỏi tôi, vì sao lại là “Biển xanh màu lá” mà không phải là biển xanh màu biển. Vì trên thực tế có những vùng biển mà nước biển xanh như màu lá cây do những rặng san hô trắng dưới lòng biển làm cảm giác nhìn nước biển nhạt hơn. Thứ hai, cũng có hàm nghĩa về sự trẻ trung, ngoài đảo hồi ấy toàn lính trẻ.  Ngày ấy Trường Sa chưa “nóng” như bây giờ, có được cuốn tiểu thuyết viết trực diện về người lính Trường Sa như “Biển xanh màu lá” là nhờ những trải nghiệm 2 năm sống với tư cách người lính của mình ở đảo.

Trong hai năm với vai trò là người lính ở Trường Sa, ấn tượng nhất đối với anh là gì? Sự trở lại với biển đảo của anh năm 2008 có gì khác?

May mắn với tư cách người lính thời bình được làm việc ở một vùng đất đặc biệt của Tổ quốc, ở Trường Sa thì đó là  trải nghiệm quý giá của tôi. Quãng thời gian ấy giúp tôi hiểu sự khó khăn, gian khổ của người lính với tư cách là nhà văn, đó là trải nghiệm mà không phải ai cũng có. Điều tôi cảm nhận được là sự hy sinh mất mát của người lính giữa thời bình. Có thể nói, đây là  chiến trường của ta giữa thời bình. Thiệt thòi lớn nhất của người lính là sự hy sinh tình cảm, đời sống riêng tư.

Ngày đó tôi làm ở Phòng công tác chính trị, công việc là cắt, kẻ vẽ phục vụ những buổi sinh hoạt chung của đơn vị. Một buổi sáng thức dậy chuẩn bị cho công việc thì có hai anh lính đi vào, một anh cầm theo bút, kéo, thước kẻ, giấy. Tôi đoán là anh ấy nhờ cắt gì đó nhưng vì đang bận nên bảo: “Em chuẩn bị đi làm, chưa giúp anh được đâu”. Anh đi cùng vỗ vai tôi bảo: “Mẹ anh ấy mất, nhờ em cắt dán dòng chữ Kính viếng hương hồn cụ”. Tôi lặng người đi.

Anh ấy tên là Thủy, cùng tên với tôi, người Thanh Hóa. Ngày ấy, ở Trường Sa không như bây giờ, phải hai ba tháng mới có một chuyến tàu từ đất liền ra đảo, cho nên, anh ấy biết mẹ mất thì nghĩa là đã qua lễ 49 ngày rồi. 

Năm 2008, tôi trở lại Trường Sa thấy mọi thứ thay đổi quá nhiều. Hồi năm 2000, mỗi tháng những người lính đảo chỉ được gọi điện thoại về nhà một lần. Người nào có bố mẹ và vợ con thì phải nghĩ xem nên gọi cho ai. Mà gọi cũng không dám gọi lâu vì còn phải nghĩ đến người khác xếp hàng chờ. Giờ thì có điện thoại di động, có điện sáng trưng cả đảo, có chùa, có dân.

 Ngày mình ở đảo, người đất liền ra thấy con gà là ngỡ ngàng lắm, nhưng giờ thì gà, vịt đủ cả. Cây xanh cũng vậy. Trồng được một cây xanh ở đảo kỳ công lắm. Đào từ đá san hô cái hố sâu mỗi bề 1 m rồi nhặt từng mẩu đất hay phân dơi rải rác khắp đảo. Ngoài đất ở đất liền chuyển ra thì bọn mình phải tích đất như thế. Chỉ tiêu mỗi người lính trồng một cây xanh. Thế mà qua bao bàn tay gây dựng cũng xanh cả đảo.

Sau “Biển xanh màu lá”, anh có dự định sẽ tiếp tục viết về Trường Sa?

“Biển xanh màu lá” là tiểu thuyết mà có người cứ nhầm là hồi ký và bút ký. Vì thế, nhiều người tưởng nhân vật là có thật. Thậm chí, cách đây 1 năm còn có đồng nghiệp ở VTV2 nhờ cùng ra đảo để tìm lại các nhân vật trong tiểu thuyết của tôi để làm phóng sự. Tôi bảo đó là nhân vật hư cấu thôi, những người lính đảo là cái nền để tôi tạo ra nhân vật.

Tâm thế mỗi người mỗi khác, mình yêu và trân trọng Trường Sa theo cách của mình. Mình ngại xuất hiện ở những chương trình nói về  Trường Sa, còn viết thêm gì về Trường Sa và biển đảo hay không thì đó là một đề tài như bao đề tài khác, nếu có cái nhìn khác mới mẻ, có cảm xúc thì mình sẽ viết. Chứ bảo đặt hàng sáng tác cả tỉ đồng mà không có cảm xúc thì cũng chịu.

Không phải là mình làm duyên làm dáng về nghề mà là yếu tố cộng hưởng để sáng tạo. Có được điều đó là  cơ duyên tạo cho mình sự may mắn. Như đã nói, mình viết trước khi trở lại Trường Sa nhưng nếu không có hai năm ở đảo thì không có “Biển xanh màu lá”. Nếu không là người lính, không trải qua những cảm xúc tận cùng của người lính thì mình cũng không thể viết được như  vậy.

Xin cám ơn anh về cuộc trò chuyện!

Nhà văn Nguyễn Xuân Thủy sinh năm 1977 tại Phú Thọ. Tác phẩm đầu tiên anh viết về người lính biển là truyện ngắn  “Hoa biển” đăng trên Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội khi chưa đặt chân đến Trường Sa. Đó là tác phẩm văn học đầu tiên của anh được đăng báo và đó cũng chính là động lực, dấu mốc thôi thúc anh theo đuổi con đường cầm bút. Sau này, lần lượt những tác phẩm văn học về Trường Sa ra đời bằng sự cảm nhận của một người lính đang sống và làm việc ở chính nơi đầu sóng ngọn gió…

“Biển xanh màu lá” được thai nghén trong những năm 2003-2006, ra mắt độc giả năm 2008 được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết trực diện về Trường Sa với lối kể chuyện khoáng đạt và giản dị. Cuốn tiểu thuyết như nhật ký của một người lính đã có hai năm gắn bó với mảnh đất thiêng liêng của đất nước. Nhận xét về cuốn tiểu thuyết đậm chất lính này, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Biển xanh màu lá” đã cắm thêm những cột mốc chủ quyền bằng văn chương cho quần đảo thiêng liêng, bất khả xâm phạm của chúng ta.

Năm 2011, Nguyễn Xuân Thủy tiếp tục xuất bản cuốn sách dành cho các em thiếu nhi với tựa đề “Tôi kể em nghe chuyện Trường Sa”. Cùng với đó, tiểu thuyết “Biển xanh màu lá” cũng được NXB Phụ nữ tái bản. Ngoài hai tựa sách trên, nhà văn Nguyễn Xuân Thủy đã in nhiều cuốn khác như: “Trong mênh mang bầu trời” (Tập ký, NXB Quân đội nhân dân, 2007); “Dòng đời cuộn chảy” (Tập truyện ngắn, NXB Công an nhân dân, 2008); “Khát vọng dưới đỉnh Fansipan” (Tập ký, NXB Quân đội nhân dân, 2009); Sát thủ online (Tiểu thuyết, NXB Công an nhân dân, 2010)…

Xem thêm
Diễn viên Midu sẽ tổ chức đám cưới vào tháng 6

Diễn viên Midu vừa thông báo sẽ tổ chức đám cưới vào tháng 6/2024. Cô cũng đã gửi thiệp đến những người bạn thân thiết về sự kiện trọng đại này.

Nhận định U23 Việt Nam vs U23 Iraq: Vượt lên chính mình

Trận đấu giữa U23 Việt Nam vs U23 Iraq trong khuôn khổ vòng tứ kết giải U23 Châu Á 2024 sẽ diễn ra vào lúc 00h30 ngày 27/4/2024 trận sân vận động Al Janoub.

Cây phong lá đỏ 115 tuổi hút du khách ở Sa Pa

LÀO CAI Cây phong lá đỏ ở Sa Pa thu hút nườm nượp du khách đến chiêm ngưỡng, chụp ảnh.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm