Đã có một thời, làng phong Đồng Lệnh (xã Tân Thành, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang) tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Sự ghẻ lạnh, kỳ thị, xa lánh cứ đẩy Đồng Lệnh xa dần khỏi cuộc sống ven bờ sông Lô. Tất cả chỉ thay đổi khi có một cô gái bước qua lời nguyền, se duyên với chàng trai sống ở ngôi làng của những người mắc bệnh hủi.
Quá khứ tủi nhục
Theo tiếng Tày, Đồng Lệnh có nghĩa là nơi khô hạn. Đã mấy chục năm trôi qua nhưng ngôi làng này bây giờ vẫn còn vướng vất quá khứ đau buồn bởi sự xa xôi. Quãng đường từ thị trấn Tân Yên vào làng có hơn chục cây số nhưng vào mùa mưa này đi bộ mất non nửa ngày trời. Làng nằm giữa một thung lũng, bốn bề là núi đá, con đường độc đạo từ bờ sông Lô đi vào trung tâm lảng vảng khói mây chẳng khác nào đường lên trời.
35 hộ, 106 con người và một quá khứ đầy tủi nhục. Tô Văn Quý, Phó thôn Đồng Lệnh dẫn tôi đi một vòng quanh làng rồi tạt vào ngôi nhà xây ở trung tâm. Đó là vết tích còn lại của trại phong ngày xưa, cũng là minh chứng của một câu chuyện tình nổi tiếng.
Chuyện tình của một cô gái lành lặn, xinh đẹp quê mãi tận Nam Định tên là Phạm Thị Miên và chàng trai Đồng Lệnh bị mắc bệnh phong Trịnh Văn Lô. “Đó là tình yêu thay đổi số phận làng phong Đồng Lệnh”, Quý nói ngắn gọn.
Ngày ngày bà Miên chăm sóc những người bị mắc bệnh phong
Năm 1972, người dân xã Tân Thành cảm thấy khó chịu khi thung lũng Đồng Lệnh đột nhiên xuất hiện một vài ngôi nhà tạm mà chủ nhân của chúng là những con người rất đáng sợ. Người cụt ngón chân, người mất bàn tay, đôi mắt lúc nào cũng đỏ lừ… Những dấu hiệu rõ ràng của căn bệnh người ta vẫn thường gọi là bệnh hủi. Ban đầu chỉ một hai người nhưng rồi trở thành cả trại phong lúc nào không hay. Cao điểm như năm 1979 lên đến cả trăm người. Từ Nghệ An, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn… số người về chữa bệnh càng đông thì sự khó chịu, kỳ thị của người dân địa phương càng bộc lộ rõ.
Bất chấp những ánh mắt, cử chỉ không mặn mà của người dân bản địa, những người cảnh ngộ tương phùng âm thầm đến với nhau, lập gia đình, sinh con đẻ cái trong cái thế giới biệt lập ấy. Xung quanh thế giới ấy, sự khó chịu, sợ hãi đã đến mức thù hằn. Nếu ra khỏi Đồng Lệnh mà nói rõ nguồn gốc của mình dù có thật thà, tốt tính đến đâu cũng chỉ nhận lại sự ghẻ lạnh, kỳ thị. Đau đớn về thể xác chẳng thấm vào đâu so với tật nguyền về tâm hồn. Thương nhất là những đứa trẻ như Tô Văn Quý.
“Đi học chẳng ai dám ngồi gần, cô giáo không cho ngồi trên bàn ghế chép bài mà bắt ngồi bệt giữa nền đất, hết học lại về, chẳng có bạn bè gì hết. Một thế hệ trẻ em Đồng Lệnh dù rất ham học nhưng đành chấp nhận mù chữ vì không thể đến trường. Đi chợ thì không mua nổi một thứ gì, củ sắn, bắp ngô, bó chè làm ra cũng chẳng bán được cho ai. Thậm chí nhiều lần thấy người Đồng Lệnh gánh hàng ra chợ, không ít người ác tính tính còn xô người ngã, ném hàng xuống vũng bùn”, Quý kể. Thậm chí, có mấy lần cán bộ xã về tiếp xúc cử tri nhưng không dám uống nước, không dám bắt tay người dân, kể cả ông trưởng thôn.
Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn, cũng đã có những chàng trai, cô gái Đồng Lệnh phải lòng người ngoài, nhưng ở thời điểm bệnh phong còn nan y thì bức tường ngăn cản chẳng khác nào một lời nguyền không thể vượt qua ranh giới. Những đám cưới ở Đồng Lệnh chỉ toàn cô dâu bệnh phong lấy chú rể bệnh phong hoặc ngược lại. Tủi nhục, đớn đau từ năm này sang năm khác, thế hệ này sang thế khác và tưởng chừng như dài đằng đẵng thì có chuyện lạ xảy ra.
Trịnh Văn Lô quê ở huyện Chợ Đồn (tỉnh Bắc Kạn), đến Đồng Lệnh khi đôi bàn tay bị bệnh hủi ăn mòn gần hết ngón. Lô đến Đồng Lệnh có một mình. Một mình chống chọi với căn bệnh quái ác, một mình kiếm đất sản xuất, trồng sắn, trồng ngô kiếm sống. Ngày ngày Lô gánh sắn ra chợ Tân Thành bán nhưng chẳng ai dám mua. Bỏ mặc sự kỳ thị, Lô vẫn đi chợ, cứ gánh đi rồi lại gánh về. Trong một lần như thế Lô gặp Phạm Thị Miên, một cô gái theo gia đình ông chú lên Tân Thành làm kinh tế mới ở xã Thái Sơn, bên kia bờ sông Lô. Cảm thương chàng trai tật nguyền, Miên không những mua hết sắn mà còn theo Lô về tận làng phong Đồng Lệnh để tìm hiểu xem căn bệnh hủi nguy hiểm đến mức nào mà người ta lại xa lánh đến mức như vậy.
“Nhìn gia cảnh anh Lô chỉ thui thủi một mình lại bị bệnh tật hành hạ tôi vừa thương vừa cảm phục ý chí vượt lên của con người này nên quyết định gắn bó cuộc đời mình”, bà Miên nhớ lại.
Nghe tin Lô và Miên chuẩn bị làm đám cưới không chỉ làng Đồng Lệnh ngỡ ngàng mà cả xã Tân Thành sốt xình xịch, bàn ra tán vào. Bản thân Trịnh Văn Lô cũng không dám tin vào điều kỳ diệu ấy. Những đêm trăng sáng, những buổi hò hẹn, Lô lấy tay Miên đặt vào lòng bàn tay đã cụt gần hết ngón của mình rồi khuyên Miên hãy tìm người đàn ông khác có tương lai hơn. Ông chú Miên đang đi rừng cũng bỏ dở việc về gọi cháu hỏi cho ra lẽ. Hỏi chán hỏi chê ông kiên quyết bắt Miên từ bỏ ý định dại dột làm dâu làng phong nhưng Miên nhất quyết đòi lấy. Kể cả việc ông chú thông báo tin dữ về cho bố mẹ ở quê thì đám cưới vẫn cứ diễn ra.
“Đơn sơ lắm, chỉ có ít bánh kẹo nhưng đó là đám cưới lịch sử của làng phong Đồng Lệnh”, những người già ở Đồng Lệnh kể. Vượt qua nghịch cảnh, tình yêu của họ đơm hoa kết trái, những đứa trẻ lần lượt ra đời. Điều mà cặp vợ chồng Lô - Miên hạnh phúc hơn nữa là con cái họ khỏe mạnh như bao người mình thường khác, tuyệt nhiên không còn dấu hiệu nào của bệnh phong. Người con trưởng của họ, Trịnh Văn Sơn bây giờ đang làm cán bộ mặt trận của thôn Đồng Lệnh.
Hóa giải lời nguyền
Cuộc sống hạnh phúc của đôi vợ chồng Miên – Lô phần nào hóa giải lời nguyền làng phong Đồng Lệnh. Những đám cưới “chồng bệnh hủi, vợ lành lặn” lần lượt nới tiếp nhau. Ông Văn Tiến Thanh lấy bà Phan Thị Long, Lý Văn Nam lấy Lê Thị Kiểm…
Năm 2003 người ta tuyên bố chấm dứt bệnh phong ở Đồng Lệnh, trại phong giải thể. Những tủi nhục, đắng cay mà dân làng phải gánh chịu suốt mấy chục năm được trút bỏ. Dư âm của căn bệnh nan y một một thời chỉ còn sót lại ở những người lên đây chữa bệnh ngày xưa không còn chốn nào để đi về. Người có gia đình thì xin đất ở lại lập nghiệp, những người một thân một mình xin ở lại trong những căn phòng kiểu ký túc xá, sống bằng nguồn tiền trợ cấp của nhà nước.
Những mần non tương lai Đồng Lệnh
Lời nguyền ở Đồng Lệnh đã được hóa giải. 100% số trẻ trong thôn được đến trường đúng độ tuổi, hiện có 35 em học ở cả ba cấp học. Tiêu biểu có Chẩu Văn Vương, tốt nghiệp Đại học Y Thái Nguyên. Bố mẹ cũng từng bị bệnh phong nên sau khi ra trường Vương bỏ qua những lời mời ở lại thành phố, anh quay về làng phong Đồng Lệnh làm việc, chăm sóc sức khỏe cho mọi người. |
Dãy nhà gồm 6 phòng khang trang, có bếp riêng ở phía sau, cạnh với trạm y tế thôn do các tổ chức từ thiện xây tặng. Các cụ Trần Thị Chinh, Ma Thị Phiên, Tướng Thị Lám, Đào Thị Biết, Nguyến Thị Đâu là thế hệ những người trong số 25 bệnh nhân phong đầu tiên còn sống tại thôn Đồng Lệnh. Ông Lô bây giờ đã thành người thiên cổ, bà Miên ngày ngày nhận việc chăm sóc những người neo đơn, không nơi nương tựa. Già nhất là cụ bà Trần Thị Chinh (103 tuổi), người dân tộc Cao Lan, quê mãi Lạng Sơn lên đây mấy chục năm rồi mà không ai trông nom cả. Mỗi tháng cụ Chinh nhận được gần 300 ngàn đồng tiền trợ cấp của nhà nước. Mọi sinh hoạt hằng ngày đều nhờ cả vào bà Miên.
"Ở đây, chăm sóc lẫn nhau đã thành nếp sống. Ngày xưa, vùng này cỏ lau mọc um tùm, đường đi chỉ là một lối mòn, cơm ăn phải độn sắn thường xuyên, nhiều lúc chỉ có nồi sắn luộc chấm muối nhưng ai nấy đều yêu thương nhau”, cụ Chinh minh mẫn lạ thường ở tuổi 103.
Đồng Lệnh hôm nay chưa thể giàu có nhưng cuộc sống có thể gọi là no đủ. Sau “thiên tình sử” của đôi vợ chồng Lô - Miên, ngôi làng trong thung lũng này chứng kiến thêm nhiều câu chuyện chẳng khác nào cổ tích. Tô Văn Quý là một ví dụ. Quê Quý ở Ninh Bình, thuở mới sinh, nhà nghèo lại đông con nên gia đình Quý dắt díu nhau tha phương cầu thực. Trong một chuyến xe ngược lên Tuyên Quang, bố mẹ Quý gặp đôi vợ chồng ở làng phong là ông Tô Văn Thế và bà Nông Thị Sùng. Hai ông bà đều bị bệnh hủi, không có con nên xin Quý về làm con nuôi. Gần 30 năm trôi qua, gia đình Quý sống hạnh phúc. Sau khi bệnh phong được xóa bỏ, Quý được đi học rồi về làm Phó thôn Đồng Lệnh.