| Hotline: 0983.970.780

Nông dân vẫn kham khổ, vất vả lắm!

Thứ Sáu 20/09/2013 , 11:14 (GMT+7)

Người thành phố của cải không chỉ hiển hiện ở những đồ đạc trong nhà mà còn có dự trữ ở đâu đó như sổ tiết kiệm, nhà ở, cửa hàng, đất đai đâu đó. Tài sản của nông dân không có cái gì ngoài những cái nhìn trần mắt thịt ra, nó là tài sản nổi và cũng rất nhỏ bé.

Cha đẻ tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” - nhà văn Nguyễn Khắc Trường (ảnh) bình luận về chuyện sở hữu của nông dân và sự tự tin đang dần mất đi của họ.

>> Luẩn quẩn trong nỗi sợ
>> Hai bức ảnh về cuộc sống người miền núi
>> Thăm nhà giàu và nghèo nhất làng
>> Nông dân đang có gì?

Tài sản nhỏ bé

Cái gốc của nông dân là ruộng đất mà giờ người ta không còn yêu quý đất nữa chẳng khác gì anh lính không cần đến súng nữa. Đất không nuôi nổi họ, không mang lại hạnh phúc cho họ và cho con cái họ. Nông dân chỉ trông vào hạt thóc mà thóc lúa quá rẻ. Cần một cái ti vi, xe máy loàng xoàng thôi cũng phải bán không biết bao nhiêu thóc.

Hạt thóc vô nghĩa so với những hàng tiêu dùng bình thường kia chứ chưa nói đến chuyện học hành của con cái. Bấu víu vào đâu? Bấu víu vào hạt thóc thì nguy hiểm quá!

Không thể so sánh tài sản của người thành phố và người nông thôn. Người thành phố của cải không chỉ hiển hiện ở những đồ đạc trong nhà mà còn có dự trữ ở đâu đó như sổ tiết kiệm, nhà ở, cửa hàng, đất đai đâu đó. Tài sản của nông dân không có cái gì ngoài những cái nhìn trần mắt thịt ra, nó là tài sản nổi và cũng rất nhỏ bé.

Trước đây thóc lúa, trâu bò và những con vật nuôi khác của nông dân bán đi rất được giá, đó là của cải của họ. Giờ những thứ đó nuôi chúng vừa lâu, khi bán lại rẻ, rẻ như thóc, nếu để sắm sửa trong nhà chúng không đáng bao nhiêu. Họ làm thuê để kiếm tiền, để ngày nào cũng có “tiền tươi thóc thật” vào cuối ngày dù là ít thôi chứ trông chờ vào làm ruộng không thấy đồng tiền ở đâu cả.

Có những bưởng vàng tận Bồng Miêu tỉnh Quảng Nam về quê tôi (Thái Nguyên) “nhặt” con em nông dân đào vàng thuê cho họ với giao kèo ngặt nghèo đến mức cả năm mới cho về một lần. Có những đầu nậu tận Lạng Sơn cũng đến lấy người đi làm cửu vạn luồn rừng vác hàng cấm. Con em nông dân đang lấy làm hài lòng về những việc tương tự như thế và tình nguyện đi.

Sao bây giờ người ta khát khao tiền đến mức như thế? Đồng tiền nó chi phối nhà nhà. Đồng tiền hoành hành làm băng hoại đạo đức, nề nếp. Anh nông dân xưa chất phác, nề nếp lắm, làng xóm xưa thanh bình lắm. Làng tôi một vùng quê trung du hẻo lánh trước kia không hề có trộm cướp mà gần đây lần nào về tôi cũng nghe người ta kháo nhau vụ này, vụ nọ.

Thủ phạm của trộm cướp là người ở ngay làng bên cạnh thôi nhưng vì không bắt được tận tay nên họ không dám nói ra vì sợ chúng trả thù. Không chỉ trộm cướp mà làng tôi giờ nghiện hút cũng có. Tình làng nghĩa xóm dần đang phai nhạt.

Không thấy lạc quan

Theo tôi, nông dân của chúng ta theo một nghĩa nào đấy vẫn chưa thực sự bước ra khỏi vũng bùn vì họ vẫn kham khổ và vất vả lắm! Tôi có nhiều dịp đi một số nước trong khu vực, chỉ đi qua đất Lạng Sơn sang Bằng Tường nhưng thấy nông dân Trung Quốc khổ hơn Việt Nam.

Nhìn vào nhà cửa của họ lụp sụp hơn, nhìn vào mặt họ thấy sầu não hơn. Nhưng sang tới Thái Lan, nông dân của họ đã sướng hơn, giàu có hơn nông dân ta.

Nghề nghiệp không ổn định, thu nhập không đảm bảo, ở làng tôi không thấy mấy nông dân có sổ tiết kiệm để phòng rủi ro, cứ cha già mẹ héo hay đau ốm là có cái gì cũng bán tất. Nông dân đang phiêu lưu với công việc. Ở Miền Bắc càng đồng bằng càng ít đất, mà đã là nông nghiệp diện tích nhỏ khó nên cơm cháo gì.

Nông thôn bây giờ không chỉ nghèo vật chất mà còn nghèo tinh thần. Tôi nhớ ngày xưa ở quê Tết rộn rã hát ca, đánh đu, kéo co hay đấu bóng chuyền, đấu vật giờ thanh niên người ta không còn thấy hay ho gì với những trò đấy để mà níu giữ hay khôi phục lại.

Đời sống tinh thần rất nghèo nàn. Thanh niên ngoài giờ làm là say sưa chè chén. Những cuộc cưới xin, trai làng cũng chỉ đến uống rượu là chính, say bét nhè.

+ Thời buổi này ai cũng ham tiền nhưng đã làm anh nông dân kiếm tiền rất khó, chính vì khó nên càng phải tìm mọi cách mà mọi cách thì không thể tốt được.

+ "Cái nhà cấp bốn lợp ngói, cái xe máy Tàu, cái ti vi màu là mục tiêu cố gắng cả đời của người nông dân ở miền Bắc. Đạt được những thứ đó coi như là xong, là mãn nguyện chứ đời sống thấp, ăn uống hằng ngày tùng tiệm vẫn chấp nhận", nhà văn Nguyễn Khắc Trường.

Hồi chiến tranh, anh nông dân rất tự tin bởi ra chiến trường chết là cùng, tôi không sợ chết, cái đó người thành phố các anh thua đứt chứ gì? Họ cũng có máu anh hùng. Anh cậy anh lắm chữ hả? Cậy anh thông minh hả? Có dám gan góc bằng tôi không? Có dám xông vào địch như tôi không?

Ngày nay, không có thử thách kiểu đấy nữa nên anh nông dân không có tự tin kiểu đấy nữa. Họ phải kiếm ăn một cách khó khăn hơn thành phố nhiều.

Trước cuộc sống bon chen, làm việc phải có năng suất, có trình độ, bản thân anh lại ít được trang bị tri thức, kỹ năng nên trước thành thị nông dân mất tự tin. Họ đi kiếm ăn chỉ mang sức lực cơ bắp của mình ra chứ không hề tin phen này mình giàu được, đi thì cứ đi thôi.

Làm sao mà tự tin khi đi đào vàng, đi cửu vạn, đi phu hồ được? Muốn thoát ra bằng cách nào? Phải đi học để có trình độ à? Phải có tiềm lực à? Rốt cuộc phải có tiền để cho con cái học hành nhưng thường thì người nông dân họ không muốn trông chờ kết quả quá lâu. Đó là một vòng luẩn quẩn.

Mặt trái xã hội phát triển

Những vấn đề mặt trái xã hội giờ càng phát triển chứ không phải mất đi như vấn đề dòng họ chẳng hạn. Dòng họ kia làm cái nhà thờ tổ to dòng họ này đi khảo sát và ra “nghị quyết” phải xây nhà thờ họ mình phải to hơn thế rồi bổ đầu đinh, đầu khẩu mà đóng dù đang túng thiếu.

Nông thôn ta ưa hình thức, ưa đua tranh kiểu hình thức như vậy chứ không ganh đua học hành, ganh đua làm giàu chính đáng. Họ nghĩ xây nhà thờ to, xây mồ mả đẹp thì nhanh chứ học hành lâu, biết bao giờ thành tài.

Giới văn nghệ sĩ giờ không mấy ai nắm được nông thôn thực sự, hiểu được anh nông dân một cách thực sự nhất là các nhà làm phim. Nông dân không xấu kiểu thế, không tốt kiểu thế, đời sống nó không thế mà tất cả do anh tự nghĩ ra nên rất giả tạo. Bởi thế lâu rồi tôi không còn thói quen xem phim trên truyền hình.

Hồi viết “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, một mình tôi đạp xe vào Thanh Hóa. Tôi không ở nhà khách, không ở nhà cán bộ mà ở ngay những nhà được cho là “có vấn đề” và hỏi chuyện họ, quan sát họ.

Nhẩn nha cả tuần, cả tháng. Bây giờ người ta đi thực tế có xe đưa, xe đón, đi theo đoàn kiểu cho vui vẻ thế làm sao mà viết trung thực và hay được?

Vừa rồi bệnh tật quá chứ không tôi cũng muốn đi Tiên Lãng (Hải Phòng) để tìm hiểu xem nguyên nhân nào đằng sau tất cả những cái đó. Hiện tại, tôi đang viết tiểu thuyết có tên là “Trang trại” nói về chuyện làm ăn to của nông dân với nhiều bi kịch, nhiều số phận nhưng chưa hoàn thành.

Nhà văn Nguyễn Khắc Trường sinh năm 1946 tại Đồng HỷThái Nguyên. Ông từng là Phó Tổng biên tập Báo Văn nghệ, rồi Phó giám đốc kiêm Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Hiện ông là Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam.

Ông được biết đến nhiều với tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, và đã được đạo diễn Nguyễn Hữu Phần dựng thành phim truyền hình “Đất và người”, ra mắt công chúng năm 2002. Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật.

Xem thêm
Việt Nam chưa đủ thông tin đánh giá tác động của dự án Funan Techo

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định Việt Nam chưa đủ thông tin để có thể đánh giá tác động của dự án Funan Techo.

Cảnh báo tình trạng xả nước thải ao tôm ra môi trường

Bạc Liêu cảnh báo tình trạng xả nước thải liên tục từ các ao nuôi tôm ra môi trường, nhất là các hộ nuôi tôm siêu thâm canh.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Tặng quà, nước uống cho người dân xã Cẩm Sơn

Bến Tre Sáng 12/5, tại UBND xã Cẩm Sơn, huyện Mỏ Cày Nam, Hội Nông dân tỉnh Bến Tre phối hợp với các mạnh thường quân tặng quà, nước uống cho bà con địa phương.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm