| Hotline: 0983.970.780

Phát triển cá nước lạnh

Thứ Tư 01/08/2012 , 10:13 (GMT+7)

Phát triển SX cá tầm, cá hồi tại VN vẫn mang tính tự phát, chưa có luận cứ làm cơ sở cho việc phát triển hai nhóm đối tượng này một cách bền vững.

Ngày 27/7/2012, tại TP. Đà Lạt (Lâm Đồng), Bộ NN-PTNT phối hợp với UBND tỉnh Lâm Đồng tổ chức hội nghị phát triển nuôi cá nước lạnh do Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Vũ Văn Tám chủ trì.

Chưa làm chủ được công nghệ

Các loài cá nước lạnh như cá hồi, cá tầm... đã được các nước Nga, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Ba Lan, Ý, Đức, Mỹ… nuôi từ rất lâu và cho nhiều kết quả khả quan. Ở VN, thông qua đầu tư của Nhà nước, nỗ lực của các tổ chức KH-CN, các tổ chức, cá nhân, đến nay nhóm cá tầm, cá hồi đã du nhập vào nước ta và trở thành đối tượng nuôi mới ở nhiều vùng, góp phần tạo công ăn việc làm cho một bộ phận cư dân miền núi.

Tuy nhiên, phát triển SX cá tầm, cá hồi tại VN vẫn mang tính tự phát, chưa có luận cứ làm cơ sở cho việc phát triển hai nhóm đối tượng này một cách bền vững tại các vùng có tiềm năng.

Theo báo cáo trình bày tại hội nghị, từ năm 2005, Viện Nghiên cứu NTTS 1 (Viện 1) đã khởi động dự án nhập công nghệ SX giống, đề án nuôi thử nghiệm cá nước lạnh tại Thác Bạc (Sa Pa, Lào Cai), sau đó chuyển vào nuôi thử nghiệm tại tỉnh Lâm Đồng vào năm 2007. Đến nay, phong trào nuôi cá nước lạnh đã phát triển mạnh trên 21 tỉnh, điển hình là Lào Cai, Lâm Đồng, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Sơn La. 

Hàng loạt trại nuôi đã xuất hiện với số lượng và quy mô ngày càng tăng ở các tỉnh vùng Đông Bắc, Tây Bắc. Tại hồ Thác Bà, Yên Bái, cá tầm được nuôi trong lồng 1 năm đạt cỡ 3-4 kg. Tuy nhiên, có thời kỳ trong năm nhiệt độ nước cao, có thể làm cá chết. Đến nay, đã phát triển nuôi quy mô lớn theo hình thức nuôi lồng trên hồ chứa nhưng chưa có quy hoạch cụ thể, chưa có quy trình nuôi chuẩn, phong trào muôi vẫn mang tính tự phát

Đối với lĩnh vực nghiên cứu và du nhập nuôi các loài cá nước lạnh, từ năm 2002 Nhà nước đã sớm quan tâm, đầu tư nghiên cứu, nhập công nghệ phục vụ phát triển nuôi cá tầm, đã có hàng loạt dự án nhập công nghệ, đề tài nghiên cứu về SX giống và nuôi thương phẩm cá tầm được phê duyệt.


Một mô hình nuôi cá hồi ở Sa Pa

Đến nay đã xây dựng đàn cá phục vụ nghiên cứu sinh sản nhân tạo, nuôi lấy trứng và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, đã bước đầu làm chủ công nghệ ương cá giống, nuôi thương phẩm cá tầm. Tuy nhiên kết quả chưa ổn định, chưa làm chủ công nghệ sinh sản nhân tạo, SX trứng.

Thông qua đầu tư của Nhà nước, tư nhân và với sự hỗ trợ của các tổ chức, chuyên gia quốc tế, đến nay VN đã nhập cá tầm Xiberi, cá tầm Trung Hoa, cá tầm Nga (A.gueldenstaedtii), cá tầm Đức (Huso huso), cá tầm lai (lai giữa 2 loài A.ruthenus và Huso huso). Năm 2008, các nhà khoa học Nga đã tiến hành nghiên cứu sinh sản và nuôi cá hồi ở khu vực Tây Nguyên. Các dữ liệu khoa học cho thấy, sử dụng thức ăn tự chế không tạo ra sản phẩm cá có chất lượng tốt do chưa phù hợp với chuyển hóa thức ăn đối với cá hồi.

VN vẫn chưa chủ động việc SX giống cá tầm. Đề tài nghiên cứu kỹ thuật sinh sản nhân tạo được tiến hành tại Viện 1 nhập công nghệ SX giống cá tầm Trung Hoa đã thu được một số kết quả, bắt đầu cho sinh sản 1 đợt tại Sa Pa, tuy nhiên quy trình công nghệ không được tiếp tục thực hiện.

Bên cạnh đó, Cty Cá tầm Phương Bắc cũng đã có những kết quả sinh sản nhân tạo ban đầu, song chỉ là thử nghiệm, chưa có số liệu công bố chính thức. Tổng số giống cá hồi, cá tầm SX năm 2011 (theo thống kê chưa đầy đủ) khoảng 800.000 con giống, trong đó giống cá hồi 250.000 con, cá tầm 550.000 con.

Trong lĩnh vực nghiên cứu, lưu giữ và SX giống nhân tạo, hiện nay, Viện 1 đang lưu giữ khoảng 60 cặp cá tầm Siberi bố mẹ (khối lượng trung bình 15 kg/con), 20 con cá tầm Trung Hoa bố mẹ (khoảng 12 kg/con), lưu giữ 500 cá hồi vân bố mẹ (cỡ khoảng 2,5 kg/con), 2.000 cá hồi hậu bị để tạo nguồn cho nghiên cứu SX giống.

 

Cần quy hoạch cụ thể

Về môi trường và dịch bệnh đối với cá nước lạnh, trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một số bệnh thường gặp như lở loét, nấm, thối mang. Việc phát triển nuôi cá nước lạnh cũng làm ảnh hưởng tới tài nguyên nước do sử dụng nguồn nước trong sạch từ sông, suối và còn gặp rủi ro do mưa bão lũ lụt, thiếu nước vào mùa khô, nhiệt độ nước thay đổi bất thường do bức xạ nhiệt vào mùa hè.
Trên thị trường, mặt hàng cá hồi, cá tầm dần trở thành sản phẩm quen thuộc đối với người tiêu dùng trong nước. Cá tươi sống cỡ 2-4 kg/con xuất hiện phổ biến tại những siêu thị, chợ thủy sản. Một số cơ sở đang hướng tới SX trứng để làm trứng muối, tuy nhiên chưa đạt chất lượng theo yêu cầu thị trường.

Để phát triển nghề nuôi cá nước lạnh hiệu quả, ổn định, theo Thứ trưởng Vũ Văn Tám, trong giai đoạn tới cần giải quyết một số vấn đề sau: 

-Cần có quy hoạch cụ thể từng địa phương, quy hoạch tổng thể về nuôi, SX giống cá tầm, cá hồi. Sớm đưa ra tiêu chí, văn bản quản lý về điều kiện đối với cơ sở nuôi, SX giống, xây dựng VietGAP cho đối tượng cá hồi, cá tầm, từ đó có chủ trương chính sách cụ thể để áp dụng, tăng cường công tác quản lý phát triển cá nước lạnh theo quy hoạch.

-Cần tổ chức SX quy mô công nghiệp, liên kết "4 nhà", để các nhà có quyền lợi tương đối đồng đều; không để độc quyền, tự ý tăng giá các yếu tố đầu vào, công tác quản lý theo chuỗi từ con giống, thức ăn, người nuôi.

-Tổ chức SX theo hướng đầu tư công nghệ cao trong việc nuôi cá hồi, cá tầm, không để nuôi tự phát, không theo quy hoạch, cần có công tác báo cáo, dự báo sản lượng diện tích nhằm quản lý tốt đối tượng nuôi.

-Tổng kết lại các đề tài, dự án đã nghiên cứu về cá hồi, cá tầm để trình hội đồng của Bộ để đưa vào danh mục giống được phép SXKD. Tập trung đầu tư nghiên cứu các công nghệ về SX giống, công nghệ nuôi thương phẩm.

-Nghiên cứu để có các giải pháp phòng chữa bệnh cho cá tầm, cá hồi trong thời gian sớm nhất. Nghiên cứu, tạo được nguồn thức ăn tại chỗ để giảm bớt chi phí vận chuyển. Hoàn thiện công thức thức ăn, sớm đưa thức ăn cá hồi, cá tầm vào danh mục được phép lưu hành tại VN.

-Có cơ chế về đất đai cho việc nuôi cá nước lạnh, khuyến khích phát triển nuôi cá hồi, cá tầm với những ưu đãi thích hợp. Dành ưu tiên cho phát triển hạ tầng cơ sở và nguồn nhân lực phục vụ ứng dụng TBKT vào SX cá tầm, cá hồi trên địa bàn miền núi, cao nguyên.

-Sớm xây dựng thương hiệu cá hồi, cá tầm VN, thành lập được Hiệp hội nuôi cá nước lạnh VN để bảo vệ lợi ích người nuôi. Xây dựng chương trình xúc tiến quảng bá cá tầm là sản phẩm đặc hữu, hình thành những kênh chế biến và tiêu thụ sản phẩm, kể cả XK. Xây dựng các kênh tiêu thụ sản phẩm và xúc tiến thương mại sản phẩm cá tầm, cá hồi ra thị trường khu vực và thế giới.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm