| Hotline: 0983.970.780

Tân Kỳ trồng keo nguyên liệu

Thứ Hai 21/10/2013 , 12:24 (GMT+7)

Đến nay huyện Tân Kỳ (Nghệ An) có hơn 300 mô hình trồng rừng kết hợp SX, chăn nuôi cho thu nhập trên 100 triệu đ/năm.

Là địa phương miền núi có tổng diện tích hơn 38.000 ha đất lâm nghiệp nên việc phát triển kinh tế vườn rừng được chú trọng, đến nay huyện Tân Kỳ (Nghệ An) có hơn 300 mô hình trồng rừng kết hợp SX, chăn nuôi cho thu nhập trên 100 triệu đ/năm.

Keo được xác định là cây trồng chủ lực ở xã Nghĩa Bình. Đến nay toàn xã đã trồng được hơn 800 ha keo, chiếm 30% quỹ đất. Trung bình mỗi năm toàn xã khai thác trên 100 ha keo, cho thu nhập không dưới 50 triệu đ/ha. Tính riêng năm 2011, cây keo đem lại nguồn thu cho xã gần 5 tỷ đồng, giúp 30 hộ dân thoát nghèo, số hộ khá, hộ giàu không ngừng tăng lên.


Rừng keo ở Tân Kỳ

Gia đình anh Đặng Xuân Hùng ở xóm Tân Thọ, xã Nghĩa Dũng (Tân Kỳ) khi chưa chuyển đổi cơ cấu cây trồng, dù lao động vất vả vẫn không thể thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Phải đến năm 2006, khi anh mạnh dạn nhận khoán 5 ha đất đồi núi để trồng rừng thì mới có những chuyển biến.

Từ vùng đất hoang vu, lau lách mọc um tùm, đất cằn sỏi đá nhưng với đức tính cần cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, vợ chồng anh Hùng đã cải tạo, phủ xanh bằng cây keo nguyên liệu. Sau 5 năm bám đất bám rừng, giờ đây gia đình anh đang gặt hái thành quả, cây keo đã đến kỳ cho khai thác, đem về nguồn thu gần 300 triệu đ/năm.

Dọc theo đường Hồ Chí Minh, đoạn qua địa phận xã Nghĩa Dũng, đâu đâu cũng bắt gặp màu xanh bạt ngàn của keo. Có được thành công như ngày hôm nay nhờ chính quyền xã thông qua các chương trình dự án hỗ trợ phát triển rừng, khuyến khích nhân dân nhận đất khoán để phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.

Trên địa bàn xã có hàng trăm hộ tham gia trồng keo nguyên liệu kết hợp các loại cây trồng ngắn ngày, chăn nuôi gia súc, gia cầm, cho thu nhập ổn định. 19 trang trại phát triển kinh tế theo mô hình VACR...

“Xã Nghĩa Dũng có hơn 5.600 ha đất tự nhiên, trong đó có gần 4.000 ha đất lâm nghiệp, diện tích rừng SX là 2.700 ha, chủ yếu là cây keo nguyên liệu. Người dân đã biết kết hợp vườn rừng với chăn nuôi, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo”, bà Nguyễn Thị An, Phó bí thư Đảng uỷ xã Nghĩa Dũng khẳng định.

Vườn rừng phát triển nhanh kéo theo nhu cầu về giống tăng lên. Năm 2006, xã Tân Hương quyết định thành lập HTX lâm nghiệp với 27 hội viên chuyên SX cây giống để đáp ứng nhu cầu đầu vào cho người trồng rừng. Hiệu quả thấy rõ, 100% hội viên HTX nhờ làm giống đã không còn đói nghèo, tỷ lệ hộ khá, hộ giàu chiếm trên 70%. 

Điển hình là hộ anh Phạm Công Lịch ở xóm 6. Trên diện tích 4 sào đất vườn, anh ươm giống từ năm 2003, thu nhập rất ổn định. Anh nhận thấy không có cây gì mang lại thành công hơn cây keo ở vùng đất này.

Đến nay huyện Tân Kỳ đã trồng khoảng 13.000 ha rừng nguyên liệu, trong đó cây keo là chủ lực. Mở rộng diện tích rừng nguyên liệu không chỉ nâng cao mức thu nhập mà còn góp phần tích cực nâng độ che phủ của rừng nhằm chống xói mòn, điều hòa nguồn nước, cải tạo môi trường sinh thái...

Ông Phạm Văn Hóa, Chủ tịch UBND huyện Tân Kỳ khẳng định: Trước mắt huyện tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn người dân phát triển rừng nguyên liệu. Từ nay đến năm 2015 toàn huyện sẽ trồng mới 7.000 ha, nâng tổng diện tích rừng nguyên liệu lên 20.000 ha.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm