| Hotline: 0983.970.780

Tăng cường hệ thống thông tin quản lý tài nguyên rừng

Thứ Hai 24/03/2014 , 09:27 (GMT+7)

Xây dựng và củng cố hệ thống thông tin quản lý ngành Lâm nghiệp là một trong 21 đề án ưu tiên trong chiến lược phát triển Lâm nghiệp VN giai đọan 2006 - 2020.

Sau 3 năm triển khai, giai đoạn I dự án Phát triển hệ thống thông tin quản lý ngành Lâm nghiệp (dự án FORMIS) đã hỗ trợ công tác quản lý tài nguyên rừng bền vững, góp phần xóa đói giảm nghèo trong công cuộc phát triển KT-XH của VN. Đây chính là cơ sở để tiếp tục thực hiện những chương trình tiếp theo.

Đó là nhận định chung của nhiều đại biểu tại hội nghị "Khởi động dự án Phát triển hệ thống thông tin quản lý ngành Lâm nghiệp tại VN, giai đoạn II (FORMIS II) do Tổng cục Lâm nghiệp tổ chức vào cuối tuần qua tại Hà Nội.

Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Nguyễn Bá Ngãi, xây dựng và củng cố hệ thống thông tin quản lý ngành Lâm nghiệp là một trong 21 đề án ưu tiên trong chiến lược phát triển Lâm nghiệp VN giai đọan 2006 - 2020.

Việc thực hiện dự án FORMIS I (2009 - 2012) do Bộ NN-PTNT phối hợp với Bộ Ngoại giao Phần Lan thực hiện là một bước tiến quan trọng cho việc đặt nền móng cho một hệ thống thông tin lâm nghiệp hiện đại. Giai đoạn I của dự án FORMIS được triển khai thực hiện tại cấp Trung ương và 3 tỉnh thí điểm là Quảng Ninh, Thanh Hóa và TT - Huế.

Từ những kết quả đạt được của giai đoạn I, giai đoạn II của dự án sẽ được thực hiện trong 5 năm (2013-2018) nhằm xây dựng một hệ thống thông tin quản lý được tích hợp đầy đủ để hỗ trợ công tác quản lý ngành Lâm nghiệp và áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn quốc.

Dự án FORMIS II do Chính phủ Phần Lan và Chính phủ VN hỗ trợ về tài chính. Cty Niars Oy Phần Lan phối hợp với GFA và Green Field cung cấp dịch vụ kỹ thuật. Ngân sách dự án do chính phủ Phần Lan tài trợ là 9,7 triệu Euro, vốn đối ứng của Chính phủ VN là 437,530 Euro, tương đương 11,7 tỷ đồng.

Mục tiêu tổng quát của FORMIS II là sẽ cung cấp một hệ thống nền công nghệ thông tin truyền thông thống nhất cho các đơn vị lâm nghiệp để tích hợp các dữ liệu và ứng dụng của các đơn vị đó vào trong hệ thống; đảm bảo các nguồn tài nguyên rừng được quản lý bền vững dựa trên nền tảng thông tin cập nhật và góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo trong công cuộc phát triển KT-XH chung của VN.

Trong quá trình thực hiện dự án FORMIS II sẽ tập trung các mục tiêu sau: Xây dựng các quy trình, tiêu chuẩn và cơ chế trao đổi thông tin giữa các cơ quan của VN. Trao đổi dữ liệu điện tử trong nội bộ Tổng cục Lâm nghiệp với các cơ quan liên quan bên ngoài và các cơ sở dữ liệu của FORMIS.

Thông tin về thực hiện hoạt động lâm nghiệp sẽ được cung cấp đến các cơ quan quan trọng bao gồm cả chủ rừng; Vận hành hệ thống quản lý thông tin tài nguyên rừng ở tất cả các tỉnh, tập trung ở các tỉnh có rừng. Đó là thông tin tài nguyên rừng, tác động vào rừng, báo cáo về các hoạt động, sự cố, thông tin liên quan đến các sản phẩm lâm nghiệp và quản lý tài chính; Chuẩn hóa cơ sở dữ liệu ngành lâm nghiệp và đưa vào cơ sở dữ liệu chuẩn của FORMIS; Tăng cường năng lực thu thập và quản lý thông tin.

Ở FORMIS I chưa có ở cấp Trung ương, nhưng ở giai đoạn II sẽ tập trung ở những đối tượng sử dụng chính ở cấp Trung ương và cấp tỉnh sẽ có đủ khả năng sử dụng và duy trì hệ thống. Bên cạnh đó, việc thành lập Trung tâm Thông tin ngành lâm nghiệp hoặc đơn vị công nghệ thông tin lâm nghiệp sẽ được thực hiện và đưa vào hoạt động.

Với những hiệu quả đã và đang nhìn thấy từ việc thực hiện dự án FORMIS, đại diện các bộ, ngành liên quan hy vọng đây sẽ là kinh nghiệm quý báo cho các chương trình hỗ trợ phát triển trong tương lai, giúp cho việc quản lý ngành lâm nghiệp VN.

Theo ông Ngãi, tầm quan trọng của hệ thống thông tin về tài nguyên rừng sẽ được củng cố hơn tron dự án FORMIS II. Chương trình tổng điều tra và kiểm kê rừng toàn quốc sẽ tạo ra một cơ sở dữ liệu vè lâm nghiệp toàn quốc phục vụ nhiều mục đích khác nhau, như thi hành luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (FLEGT) cũng như chương trình giảm thiểu khí thải nhà kính do mất rừng và suy thoái rừng (REDD+).

Trong chương tình khởi động thì dự án đã hoàn thành thí điểm tại 2 tỉnh là Bắc Kạn và Hà Tĩnh, hiện tại đang triển khai thực hiện ở 13 tỉnh thuộc Tây Nguyên và Tây Nam bộ.

Ngoài ra, BQL dự án đã có được những thỏa thuận với các đối tác chính như Tổng cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm, Viện Điều tra quy hoạch rừng, Trường ĐH Lâm nghiệp về cách tích hợp và công bố dữ liệu thông tin phục vụ Dự án Tổng điều tra và kiểm kê tài nguyên rừng toàn quốc trên Cổng thông tin Tổng cục Lâm nghiệp.

Đại diện cho đơn vị thí điểm trong giai đoạn I, đại diện Chi cục Lâm nghiệp tỉnh TT - Huế chia sẻ: Hiệu quả được thể hiện rõ tại TT - Huế. Đó là, dự án đã giúp đào tạo đội ngũ cán bộ tư vấn và giảng viên, tổ chức 16 đợt tập huấn cho cán bộ lâm nghiệp cấp xã, huyện về việc quản lý thông tin; thực hiện thí điểm tại xã Lộc Thủy việc tích hợp kiểm kê rừng và đưa vào hệ thống phần mềm FORMIS. Tại đây người dân có thể biết được diện tích, sản lượng, tài nguyên rừng của các chủ rừng.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Hà Nội bắt chó thả rông, kiên quyết xử lý theo quy định

Tình trạng thả rông chó, mèo tại các khu vực công cộng không có rọ mõm, dây xích, không có người dắt vẫn đang xảy ra trên địa bàn Hà Nội.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm