| Hotline: 0983.970.780

Hệ thống SX, chứng nhận GCT

Tồn tại& giải pháp (Tiếp theo và hết)

Thứ Tư 23/04/2014 , 10:16 (GMT+7)

Thời gian vừa qua chúng ta chỉ mới chú trọng đào tạo kiểm định, lấy mẫu, kiểm nghiệm... đó mới chỉ là đào tạo phần ngọn, chứ chưa quan tâm đúng mức phần gốc.

Những tồn tại hạn chế

- Chưa kiểm soát được chất lượng các dòng bố mẹ ngô lai SX trong nước. Việc đăng ký chứng nhận chất lượng (CNCL) đối với giống lúa siêu nguyên chủng, dòng bố mẹ lúa lai và hạt lai F1 giống lúa lai SX trong nước của các đơn vị SX giống chưa đúng số lượng so với thực tế SX.

 Nên chăng cơ quan quản lý Nhà nước cần phải có những “thiết chế” mang tính pháp luật để bắt buộc các đơn vị có dòng bố mẹ, giống siêu nguyên chủng phải đăng ký kiểm định, kiểm nghiệm 100%. Đơn vị nào vi phạm phải xử phạt nghiêm minh.

- Hạt giống rau, quả hiện đang bán trên thị trường, cơ quan chức năng chưa kiểm soát đầy đủ được chất lượng. Hạt giống rau, quả rất đa dạng về số lượng và chủng loại, chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. Nhiều lô giống rau đang vi phạm về nhãn bao bì và không có hướng dẫn cụ thế bằng tiếng Việt cho người sử dụng.

- Một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý chất lượng GCT hiện tại không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn SX và hội nhập kinh tế quốc tế như mã lô giống nhập khẩu, việc CNCL lô giống hợp quy nhưng chưa kiểm soát dán tem nhãn đến bao giống thành phẩm ở khâu cuối trước khi bán trên thị trường, quy định về thu phí kiểm định các dòng đối với các loài cây trồng có hệ số nhân giống thấp như lạc, đậu tương, khoai tây là chưa hợp lý.

- Kiểm tra, đánh giá giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các tổ chức CNCL có hệ thống người kiểm định, người lấy mẫu, người kiểm nghiệm còn hạn chế, bất cập. Các cơ quan, đơn vị SX giống cử người đi học có “chứng chỉ đào tạo” rồi thì người đó “hành nghề” ra sao? Đã có đủ kiến thức và kinh nghiệm thực tế để hành nghề chưa? Cơ quan quản lý Nhà nước sẽ kiểm tra giám sát tay nghề của những người này thế nào?

Thực tế của việc “xã hội hoá CNCL GCT” ở VN còn rất nhiều việc phải bàn. Nên xã hội hoá như thế nào? Ngưỡng của xã hội hoá CNCL từ đâu đến đâu? Cần phải có những “thiết chế” cụ thể và tới đây các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ phải tổng kết công tác xã hội hoá CNCL, được cái gì, mất cái gì? Trên cơ sở đó mới có những quyết sách hợp lý.

- Chưa phân loại một cách đầy đủ các phòng kiểm nghiệm hợp chuẩn và tổ chức chứng nhận hợp quy, nên cũng chưa đưa ra được các các phòng kiểm nghiệm và tổ chức chứng nhận yếu kém, không còn đủ khả năng để duy trì, vận hành hệ thống quản lý chất lượng hiện hành.

- Hệ thống trang thiết bị của phòng kiểm nghiệm GCT do DANIDA tài trợ để phục vụ công tác quản lý Nhà nước sau hơn 15 năm đang dần xuống cấp cần được sửa chữa, bổ sung hoàn thiện nhưng do thiếu nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế.

- Một số đơn vị SX giống được “tự làm” khép kín từ khâu SX đến CNCL và kinh doanh GCT; nếu không được đơn vị quản lý Nhà nước thanh kiểm tra, giám sát định kỳ sẽ dẫn đến tình trạng làm tắt, bỏ qua 1 số công đoạn trong chứng nhận hợp quy đối với lô giống.

Nhiều trường hợp phục tráng giống theo ý kiến chủ quan của mình nên có tình trạng 1 giống lúa sau vài năm phục tráng, các đơn vị khác nhau sẽ cho ra các sản phẩm “giống” này là khác nhau trong SX. Nguyên nhân là không tuân thủ “Quy trình kỹ thuật phục tráng giống” theo quy định hiện hành.

- Hệ thống dịch vụ, cung ứng và kinh doanh GCT là các đại lý/cửa hàng bán giống trên thị trường đang diễn ra hết sức sôi động với số lượng lớn, hình thức bán buôn nhỏ lẻ, manh mún và không đồng nhất về mọi mặt. Phần lớn họ là người chưa được đào tạo, tập huấn về chuyên môn kỹ thuật trồng trọt và kỹ năng bán hàng, nên khả năng tư vấn khách hàng và xử lý các tình huống khi gặp sự cố về giống là rất khó khăn.

- Vẫn còn một bộ phận nhỏ người dân chưa quen dùng giống cấp xác nhận để SX tại các tỉnh phía Bắc, duyên hải Nam Trung bộ; trong khi khu vực vùng ĐBSCL, Đông Nam bộ thì người dân lại chủ động tự để giống để SX.

Những giải pháp chủ yếu

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến GCT. Tập trung xây dựng luật GCT để thay thế pháp lệnh GCT hiện nay cho phù hợp với thực tiễn SX và đáp ứng được hội nhập và thông lệ quốc tế.

Kiện toàn lại công tác quản lý Nhà nước về chất lượng GCT theo hướng quản lý hệ thống và đầu mối, trên nền xã hội hóa công tác CNCL GCT. Cục Trồng trọt sử dụng đầu mối về chuyên môn nghiệp vụ là Trung tâm KKN giống, sản phẩm cây trồng Quốc gia với 4 tổ chức chứng nhận, 4 phòng kiểm nghiệm tại Hà Nội, Quảng Ngãi, TPHCM, Đăk Lăk.

Hiện phòng kiểm nghiệm tại Hà Nội được Hiệp hội Chứng nhận chất lượng quốc tế công nhận - Phòng ISTA và 3 phòng kiểm nghiệm GCT của đơn vị sự nghiệp tại Vĩnh Phúc, Thanh Hóa và Đồng Tháp để thực hiện phân tích mẫu thanh tra và tham gia giám sát GCT trên thị trường cả nước.

Nhà nước tập trung đầu tư nâng cấp trang thiết bị, đào tạo nhân lực và hỗ trợ kinh phí đủ cho hoạt động giám sát của 7 phòng kiểm nghiệm để phục vụ quản lý nhà nước về chất lượng GCT.

- Tổ chức đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho hệ thống quản lý, SX, chứng nhận chất lượng, dịch vụ và kinh doanh GCT trong phạm vi cả nước. Đặc biệt quan tâm đào tạo người đang trực tiếp chọn cá thể (dòng G1, G2) để ra cấp giống siêu nguyên chủng và người chọn dòng bố mẹ giống lai và hạt giống lai F1.

Thời gian vừa qua chúng ta chỉ mới chú trọng đào tạo kiểm định, lấy mẫu, kiểm nghiệm... đó mới chỉ là đào tạo phần ngọn, chứ chưa quan tâm đúng mức phần gốc đối với người chọn cá thể dòng và hạt giống lai F1.

- Tiếp tục quản lý Nhà nước về chất lượng đối với cấp giống siêu nguyên chủng, dòng bố mẹ và hạt lai F1 SX trong nước đối với các cây trồng là lúa, ngô và các giống lúa lai, ngô lai F1 nhập khẩu phải được cơ quan quản lý Nhà nước kiểm tra chất lượng trước khi gieo trồng.

- Quản lý Nhà nước về chất lượng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn VN đối với một số giống rau, quả phổ biến như rau cải, cà chua, bầu bí, dưa hấu...

- Tăng cường thanh kiểm tra, đánh giá, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước từ địa phương đến Trung ương về các mặt sau đây:

+ Thứ nhất, các cơ quan chức năng phải thường xuyên kiểm tra, giám sát định kỳ đối với các đơn vị SX về điều kiện SX GCT để có biện pháp xử lý kịp thời cho các đơn vị SX giống không thực hiện đúng, đầy đủ những quy định hiện hành. Đây là công việc quan trọng đầu tiên, là cơ sở để truy xét nguồn gốc giống trong SX, nhất là đối với giống gốc, giống cấp siêu nguyên chủng, dòng bố mẹ giống lai.

+ Thứ hai là kiểm tra, giám sát điều kiện kinh doanh GCT đối với các đơn vị đã đăng ký kinh doanh giống. Đây là công việc kiểm tra liên hoàn của quá trình từ SX đến kinh doanh GCT để thường xuyên hướng dẫn kịp thời cho các đơn vị kinh doanh giống thực hiện đúng, đầy đủ việc “kinh doanh giống là có điều kiện” theo quy định của pháp luật.

Hiện chưa có một số liệu cụ thể nào về việc kiểm tra lượng giống bán ra trên thị trường có phù hợp với lượng giống SX được đăng ký kiểm định, kiểm nghiệm của các Cty hay không? Tỷ lệ lượng giống được SX chiếm bao nhiêu phần trăm lượng giống được bán ra của các Cty? Có xảy ra trường hợp có lô giống được bán ra nhưng không có nguồn gốc và không đăng ký kiểm định, kiểm nghiệm không? Có xảy ra trường hợp sử dụng hồ sơ 1 lô giống để “sản xuất kinh doanh” nhiều lô giống hay không?

+ Thứ ba là tổ chức lấy mẫu trên thị trường để kiểm tra đánh giá chất lượng và hậu kiểm mẫu giống. Hoạt động này phải được tiến hành hàng vụ, hàng năm trên phạm vi toàn quốc. Lượng mẫu giống được lấy trên thị trường tương đương từ 3 - 5% tổng số lô giống đang kinh doanh trên thị trường.

Phân tích chất lượng mẫu giống trên thị trường do các phòng kiểm nghiệm “trọng tài” của cơ quản lý Nhà nước thực hiện. Khoảng 30% tổng số mẫu này phải được hậu kiểm để đánh giá tính đúng giống và độ thuần giống.

+ Thứ tư là kiểm tra, đánh giá, giám sát phòng kiểm nghiệm và tổ chức chứng nhận chất lượng GCT đã được chỉ định. Đây là công việc rất quan trọng của công tác xã hội hóa trong hoạt động CNCL GCT hiện nay. Trên cơ sở kiểm tra, đánh giá, giám sát định kỳ hàng năm để xác định các phòng kiểm nghiệm chưa được công nhận hợp chuẩn và các tổ chức chứng nhận chưa được công nhận hợp quy.

Đồng thời kết hợp đánh giá phân loại các phòng kiểm nghiệm và các tổ chức CNCL thông qua “thử nghiệm liên phòng” và đánh giá giám sát của các tổ chức chứng nhận chuyên nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành.

Kết quả kiểm tra, đánh giá, giám sát hàng năm sẽ phân loại các phòng kiểm nghiệm và tổ chức chứng nhận chất lượng yếu kém, không phù hợp với yêu cầu trong hệ thống quản lý ISO hoặc TCVN, để hướng dẫn, điều chỉnh bổ sung hoặc đình chỉ hoạt động đối với phòng kiểm nghiệm hoặc tổ chức CNCL theo quy định.

+ Thứ năm là tham vấn khách hàng, đây là thước đo cuối cùng về chất lượng. Chỉ có thể lấy ý kiến thăm dò đối với người tiêu thụ, sử dụng giống để làm căn cứ đánh giá đầu ra của chất lượng lô GCT một cách khách quan, minh bạch đối với SX.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm