| Hotline: 0983.970.780

Bón phân hợp lý cho lúa hè thu và thu đông ở ĐBSCL

Thứ Tư 23/04/2008 , 07:00 (GMT+7)

Do đặc điểm ĐBSCL có ba nhóm đất chính gồm: đất phèn 1,6 triệu ha chiếm 41%, đất phù sa 1,18 triệu ha, chiếm 30% và đất mặn 0,74 triệu ha, chiếm 19% nên lượng phân trong từng mùa vụ sẽ có khuyến cáo khác nhau.

Hiện nay giá phân bón trên thị trường rất cao. Vì vậy chúng tôi tính toán các công thức khuyến cáo với mức bón tiết kiệm cho bà con nông dân trước khi bước vào vụ vụ lúa hè thu (HT) và thu đông (TĐ) trong vùng.

I - Bón phân trên vùng đất phèn

Tiểu vùng đất phèn tiềm tàng, không nhiễm mặn, ngập sâu từ 1 đến 1,5 m trong mùa lũ, với cơ cấu cây trồng phổ biến là hai vụ lúa ĐX – HT. Đây là vùng ngập sâu thuộc các tỉnh Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long. Công thức chất dinh dưỡng được khuyến cáo cho vụ lúa HT ở mức cao cho 1 ha là 80-80-50 (80 kg đạm (N) nguyên chất + 80 kg lân (P2O 5) nguyên chất + 50 kg kali (K2O) nguyên chất). Mức trung bình là 60-40-25 và mức thấp là 40-40-25.

Tiểu vùng đất phèn tiềm tàng, không nhiễm mặn, nhưng ngập cạn với cơ cấu hai vụ lúa (ĐX–HT). Tiểu vùng này xa sông, không nhiễm mặn trong mùa khô, ngập sâu dưới 0,5 m trong mùa mưa và thời gian ngập ngắn dưới 3 tháng tập trung thuộc TP Cần Thơ, các tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long và Long An. Khuyến cáo bón phân cho vụ HT ở mức cao là 90-80-50, mức trung bình 70-40-25 và mức thấp là 50-40-25.

Tiểu vùng đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn, ngập cạn với cơ cấu hai vụ lúa HT và mùa địa phương. Tiểu vùng này phân bố tập trung ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Bến Tre và một phần nhỏ rải rác tại Hậu Giang (Vị Thanh, Long Mỹ) và Trà Vinh. Kinh rạch vùng này bị nhiễm mặn từ 2 đến 5 tháng trong mùa khô. Mô hình kết hợp nuôi cá trong ruộng lúa là phổ biến tại vùng này. Đối với lúa HT, mức bón phân khuyến cáo cao là 100-60-50, trung bình 80-30-25, mức thấp 60-30-25. Số liệu tương ứng đối với lúa mùa là: mức cao 70-40-00, mức trung bình 50-20-00, mức thấp 30-20-00. Lúa mùa không cần bón kali.

Phần lớn tiểu vùng đất phèn không nhiễm mặn, ngập sâu, với cơ cấu hai vụ lúa ĐX-HT phân bố tập trung ở hai vùng rộng lớn là Đồng Tháp Mười ( Đồng Tháp, Long An , Tiền Giang) và Tứ Giác Long Xuyên ( Kiên Giang, An Giang). Ngoài ra một phần diện tích của huyện Thốt Nốt , Vĩnh Thạnh và quận Ô Môn của TP Cần Thơ. Đặc điểm chính vùng này là đất phèn nặng, ngập sâu trên 1 m, có nơi trên 2 m, thời gian ngập kéo dài trên 3 tháng. Công thức phân bón khuyến cáo cho vụ HT ở mức cao là 80-80-50, mức trung bình 60-40-25 và mức thấp là 50-40-25.

Đối với tiểu vùng đất phèn không nhiễm mặn, ngập trung bình đến cạn với cơ cấu ba vụ lúa trong năm phân bố rải rác ở các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng và Kiên Giang. Cơ cấu cây trồng phổ biến là lúa ĐX-XH-HT hoặc lúa ĐX-HT-TĐ, hàng năm tiểu vùng này chịu ảnh hưởng của lũ trong mùa mưa với độ sâu ngập lụt từ trung bình đến cạn và thời gian ngập ngắn. Do đó công thức phân bón khuyến cáo cho lúa HT hoặc TĐ cao sản ở mức cao là 80-60-50, mức trung bình 60-30-25 và mức thấp 40-30-25.

Tiểu vùng đất phèn hoạt động, nhiễm mặn, ngập trung bình với cơ cấu hai vụ lúa ĐX-HT bao gồm những khu vực đất phèn từ trung bình đến nặng ở các tỉnh Kiên Giang, Long An, Tiền Giang và Bến Tre. Mùa khô vùng này nhiễm mặn dưới 3 tháng (tháng 3-5). Trong mùa mưa, vùng này chịu ảnh hưởng của lũ với mực nước ngập từ trung bình đến cạn và thời gian ngập ngắn. Vụ HT nằm gọn trong mùa mưa và là vụ chính có năng suất thường cao hơn vụ ĐX. Công thức phân bón khuyến cáo cho vụ này ở mức cao là 100-60-60, mức trung bình 80-40-30 và mức thấp 60-30-30.

Ở tiểu vùng đất phèn hoạt động, nhiễm mặn, ngập cạn đến không ngập với cơ cấu hai vụ lúa HT- lúa mùa, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Kiên Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau. Đặc điểm chính của tiểu vùng này là đất phèn nặng, hàng năm bị nhiễm mặn trên 3 tháng (từ tháng 2 trở đi) và ít chịu ảnh hưởng của lũ trong mùa mưa. Do vậy, vùng này lúa không trồng được trong mùa nắng. Cơ cấu cây trồng chủ yếu tại đây là lúa mùa một vụ hoặc lúa HT- lúa mùa. Đối với lúa HT, mức phân bón khuyến cáo cao là 80-80-60, trung bình 60-40-30, mức thấp 40-40-30. Đối với lúa mùa, mức cao là 70-40-00, mức trung bình 50-20-00 và mức thấp 30-20-00.

Vùng phèn có 7 tiểu vùng sinh thái khác nhau. Bình quân chất dinh dưỡng khuyến cáo ở mức cao cho lúa HT và cả TĐ là 87,1-71,4- 52,9; mức trung bình là 67,1-37,1-26,4 và mức thấp là 48,6-35,7-26,4. Đối với lúa mùa, bình quân ở mức cao là 70-40-00, trung bình 50-20-00 và mức thấp 30-20-00 kg N- P2O5-K2O/ha.

(Còn nữa)

Xem thêm
Vĩnh Phúc đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Chăn nuôi

Tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Chăn nuôi, nhất là quy định mật độ chăn nuôi vùng để phù hợp với thực tế chăn nuôi tại các địa phương.

Công bố lưu hành thương mại vacxin dịch tả lợn Châu Phi Dacovac - ASF2

BẮC NINH Dacovac - ASF2 là sản phẩm vacxin dịch tả lợn Châu Phi thứ 3 tại Việt Nam được Bộ Nông nghiệp và Môi trường cấp phép lưu hành thương mại.

Không để hết tiền là hết dự án

Nhìn từ dự án tăng cường chuỗi cây trồng an toàn phối hợp cùng JICA, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia gợi mở một số điểm khi xây dựng mô hình sắp tới.

Đại sứ Colombia: ‘Chính sách tốt bắt nguồn từ cơ sở khoa học vững chắc’

Bà Camila nhấn mạnh điều này khi trao đổi với CIAT và cho rằng Chính phủ các quốc gia phải có trách nhiệm trong việc nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo.

Cơ hội từ Nghị quyết 57: Phải giữ được người tài

Với Nghị quyết 57, cơ hội phát triển đang rộng mở với các viện, trường, cơ sở nghiên cứu khoa học. Nhưng trước hết, các viện, trường phải giữ chân được người tài.

Phát triển xanh giúp ngành tôm Việt Nam duy trì vị thế trên thế giới

ĐBSCL Phát triển xanh là điều kiện tiên quyết để ngành tôm Việt Nam duy trì vị thế trên thị trường thế giới, bằng việc ứng dụng công nghệ tiên tiến, kiểm soát tốt dịch bệnh.

Sơn La khai thác tiềm năng hơn 1 triệu tín chỉ carbon từ rừng

Sơn La Với hơn 671.000 ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 47,6%, Sơn La có tiềm năng đạt khoảng gần 1,2 triệu tín chỉ carbon từ rừng hằng năm.