I.
Trước hết là Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) nhằm mục tiêu tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á, tăng cường gắn kết giữa các nước thành viên nhưng không nhằm tạo ra một khối phòng thủ chung, đồng thời thúc đẩy sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài.
APSC đề ra các mục tiêu, thành tố và lĩnh vực hợp tác cùng 145 biện pháp/dòng hành động cụ thể để triển khai ba cụm vấn đề lớn, đó là Hoạt động theo luật định với các chuẩn mực chung, là Có trách nhiệm chung bảo đảm an ninh toàn diện, và là Mở rộng quan hệ với bên ngoài.
Quá trình hình thành APSC đã bắt đầu từ năm 2009 và đến nay đã và đang triển khai 129 trong số 145 biện pháp/dòng hành động, đạt tới 89% kế hoạch đề ra.
Cụ thể như: Đã chủ động xây dựng và chia sẻ các nguyên tắc chuẩn mực ứng xử ở khu vực, không chỉ giữa các nước ASEAN mà cả giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài.
Đã có 22 đối tác bên ngoài tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), trong đó có tất cả các nước lớn và EU. Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) đã có 5 nước có vũ khí hạt nhân tham gia.
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) đã được ASEAN và Trung Quốc ký vào năm 2002 và đang nỗ lực xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)...
Với Việt Nam thì APSC tạo ra nền tảng và khuôn khổ vững chắc để thúc đẩy hợp tác chính trị - an ninh ASEAN, hợp tác ngày càng sâu rộng giữa các nước thành viên, giúp nâng cao vai trò của ASEAN trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.
Tuy nhiên Cộng đồng APSC cũng tạo ra những khó khăn và thách thức với Việt Nam. Đó là phải xử lý nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm như tập trận chung, lực lượng gìn giữ hòa bình chung, dân chủ, nhân quyền… Vấn đề Biển Đông còn khác biệt về lợi ích quốc gia và tính toán chiến lược của từng nước.
II.
Trụ cột thứ hai là Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) với mục tiêu xây dựng một cộng đồng các dân tộc ASEAN hài hòa, đoàn kết, đùm bọc, chia sẻ, hướng tới người dân, chăm lo cho thể chất, phúc lợi, sao cho môi trường sống của người dân ngày càng tốt hơn và tạo dựng nên được một bản sắc chung của khu vực.
Trong lĩnh vực này thách thức với Việt Nam là không nhỏ. Muốn tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đòi hỏi phải có nguồn lực lớn để tổ chức thực hiện.
Sau năm 2015 tình trạng lao động thiếu kỹ năng sẽ khó có cơ hội tìm được việc làm thích hợp ở các nước ASEAN. Mặt khác trình độ khoa học và công nghệ nước ta nếu không có những bước bứt phá mới thì cũng khó có đủ năng lực cạnh tranh, khó đáp ứng được với việc đổi mới công nghệ trong sản xuất công nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Chúng ta cần tăng cường nguồn tài chính và nhân lực để đẩy mạnh sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Phải phấn đấu để người nghèo được bảo vệ trước các tác động của lạm phát, bệnh tật, tai nạn lao động…
Cần thực hiện chủ trương Đổi mới toàn diện và triệt để giáo dục để tương thích với trình độ của khu vực và quốc tế, đảm bảo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động ASEAN.
Chào đón Cộng đồng ASEAN thật vừa mừng, vừa lo, nhưng cơ hội vẫn là rất lớn. Chúng ta phải có quyết tâm tận dụng tối đa các cơ hội này trên cơ sở lợi thế của những sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao, sức lao động dồi dào và truyền thống chịu thương chịu khó vượt qua những thử thách lớn lao, đồng tâm tạo ra bước phát triển mới cho nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nước ta nói riêng. |
Sau năm 2015 các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm, dịch vụ và sự đầu tư từ các nước ASEAN, nhất là khi hàng rào phi thuế quan sẽ bị loại bỏ. Chắc rằng một số ngành sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa, không ít lao động khi đó sẽ bị thất nghiệp.
III.
Trụ cột thứ ba là Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Chúng ta không quên ASEAN hiện gồm 10 quốc gia với số dân tới 694 triệu người (2015), với số lượng hàng hóa xuất khẩu hàng năm lên tới 1.000 tỷ USD, được coi là nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới.
Cộng đồng AEC hướng tới 4 mục tiêu chính: Đưa ASEAN thành một cơ sở sản xuất và thị trường chung với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kỹ năng và sự lưu chuyển tự do hơn về đồng vốn.
Phát triển cân bằng giữa các nước thành viên, thu hẹp khoảng cách phát triển và thúc đẩy tiến trình hội nhập của Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam thông qua sáng kiến Hội nhập ASEAN và các sáng kiến khu vực khác. Nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế khu vực, đưa kinh tế ASEAN hội nhập đầy đủ và sâu sắc hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Với nước ta, AEC mở ra nhiều cơ hội mới, đưa sự hợp tác và đoàn kết trong các nước ASEAN lên một tầm cao mới. Trước hết, đó là cơ hội mở rộng thị trường trong nội khối với GDP hàng năm tới 3.000 tỷ USD.
Hàng rào thuế quan bị loại bỏ, các hàng rào phi thuế quan được cắt giảm, từ đó hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động sẽ lưu chuyển thông thoáng hơn, nâng cao sức mạnh kinh tế của cả khu vực.
Các doanh nghiệp sẽ giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Hiện nay ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, sau Mỹ và EU.
Thông qua Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) sẽ là cơ hội để tăng cường thu hút các luồng đầu tư có chất lượng, phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước, tạo thêm cơ hội để các doanh nghiệp có năng lực đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài.
Nhưng AEC cũng đặt ra không ít thách thức đối với chúng ta. Đó là thách thức về khả năng hoàn thành các biện pháp AEC đúng thời hạn và khả năng thực hiện cam kết của các nước theo kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.
Liệu bao nhiêu % doanh nghiệp Việt Nam đã hiểu về AEC và chuẩn bị đầy đủ khả năng để đáp ứng với các cơ hội và thách thức của AEC. Nhiều thành viên AEC đang tham gia ngày càng nhiều hơn và sâu hơn vào các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại ở khu vực và thế giới. Điều này có thể khiến các thành viên ASEAN phân tán nguồn lực và sự tập trung để thực hiện các mục tiêu của AEC.
Nước ta và các nước thành viên mới sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh cao hơn từ hàng hóa ASEAN. Từ năm 2015-2018, sẽ phải đưa toàn bộ các mặt hàng trong danh mục nhạy cảm về 0%, hầu hết các mặt hàng này được mức bảo hộ cao trước đó. Khi đó một số ngành sẽ bị tác động khi thuế bảo hộ phải dỡ bỏ.
Khi thị trường lao động từng bước mở cửa, chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động cả về chuyên môn, ngoại ngữ, sức khỏe và kỹ năng sống. Nếu một lượng lớn lao động từ các nước thuộc Cộng đồng AEC vào Việt Nam sẽ tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ với lao động trong nước.