Cuộc chiến chống lại đại dịch Covid-19, căn bệnh hô hấp truyền nhiễm cao đã giết chết hơn 1,3 triệu người trên toàn cầu, chuyển sang một bước ngoặt mới trong tuần này.
Gần một năm kể từ khi virus Corona mới được phát hiện, hàng tỷ đô la đã được đổ vào các nỗ lực nghiên cứu và hàng chục nghìn tình nguyện viên đã tham gia vào các thử nghiệm quy mô lớn khi các gã khổng lồ dược phẩm đua nhau cung cấp một loại vacxin hiệu quả với tốc độ kỉ lục.
Khi thế giới đang cố gắng xoay chuyển tình thế trong cuộc chiến chống Covid-19, đây là những gì chúng ta biết cho đến nay về cuộc chạy đua toàn cầu để sản xuất vắc-xin.
Những hãng nào vượt lên trước?
Công ty dược phẩm Hoa Kỳ Pfizer và đối tác BioNTech của Đức đã công bố kết quả từ thử nghiệm giai đoạn 3 đối với vacxin COVID-19 của họ cho thấy có hiệu quả 95% - tỷ lệ thành công cao nhất đối với bất kỳ loại vacxin nào trong các thử nghiệm giai đoạn cuối cho đến nay.
Theo kết quả thử nghiệm, vacxin không có tác dụng phụ nghiêm trọng và nó có hiệu quả 94% ở người lớn tuổi, những người thường dễ bị COVID-19 nặng hơn.
Chỉ vài ngày sau, Moderna, cũng là một công ty dược phẩm của Mỹ, công bố dữ liệu đầy hứa hẹn cho thấy ứng cử viên vacxin của họ có tỷ lệ hiệu quả 94,5%.
Tuần trước, Nga cũng cho biết kết quả thử nghiệm tạm thời cho thấy ứng cử viên vacxin của họ có hiệu quả 92%.
Nhìn chung, có 12 loại vacxin hiện đang được thử nghiệm giai đoạn cuối, bao gồm cả loại vacxin do AstraZeneca hợp tác với Đại học Oxford phát triển. Kết quả thử nghiệm của nó dự đoán được công bố trong vòng vài tuần.
Giai đoạn 3 của thử nghiệm hoạt động như thế nào?
Giai đoạn thứ ba của cuộc thử nghiệm vacxin phải thu nhận hàng nghìn người từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Ví dụ, Pfizer và BioNTech đã thu hút khoảng 44.000 người. Khoảng 30.000 người đã tham gia vào thử nghiệm của Moderna.
“Cách thức hoạt động là một nửa số người tham gia được tiêm vacxin virus Corona, trong khi nửa còn lại được tiêm giả dược, thường là dung dịch nước muối”, Soumya Swaminathan, Phó Tổng giám đốc các chương trình của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết.
“Sau đó, cần theo dõi biểu đồ và sự phát triển của bệnh… Kế tiếp, kiểm tra xem có ai phát triển các triệu chứng không và tiếp tục theo dõi những người khác trong ít nhất 12 tháng”.
Trong thử nghiệm Pfizer-BioNTech, kết quả dựa trên 170 trường hợp nhiễm COVID-19. Trong số này, 8 người tham gia trước đó đã được tiêm vacxin , trong khi những người khác đã được dùng giả dược. Điều này có nghĩa là vacxin đã ngăn ngừa được 95% các trường hợp bị lây nhiễm.
Moderna đã thực hiện phân tích tạm thời từ 95 trường hợp được xác nhận nhiễm virus Corona; chỉ 5 người trong số họ đã được tiêm vacxin .
Do tình huống khẩn cấp, vacxin có thể được cơ quan quản lý như Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ hoặc Cơ quan Thuốc Châu Âu cho phép sử dụng khẩn cấp/tạm thời trước khi được phê duyệt chính thức.
Pfizer cho biết họ sẽ áp dụng trong vài ngày tới, trong khi Moderna có kế hoạch nộp đơn trong những tuần tới, khi nó có dữ liệu an toàn trong hai tháng từ một nửa số người tham gia thử nghiệm.
Cơ quan quản lý làm gì sau đó?
Cơ quan quản lý xem xét dữ liệu và kiểm tra mức độ hiệu quả của vacxin. Amir Khan, giảng viên cấp cao tại Trường Y của Đại học Leeds và Đại học Bradford, cho biết: “Thông thường, quá trình xem xét như vậy có thể mất một năm hoặc hơn, nhưng trong trường hợp này, sẽ chỉ mất vài tuần”.
Nếu dược phẩm được chấp thuận, họ sẽ nhận được giấy phép tạm thời để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp, đồng thời tiếp tục cung cấp dữ liệu cho cơ quan quản lý. Nếu kết quả vẫn khả quan sau 12 tháng, cơ quan quản lý sẽ trao giấy phép thông thường.
Pfizer và BioNTech dự kiến sẽ sản xuất tới 50 triệu liều vacxin trên toàn cầu trong năm nay và lên tới 1,3 tỷ liều vào cuối năm 2021.
Những tác động là gì?
Các chuyên gia đã hoan nghênh kết quả đạt được nhưng với thái độ thận trọng do vẫn còn nhiều câu hỏi cần được giải đáp.
WHO cho biết: “Tất cả các kết quả mà chúng tôi thấy cho đến nay đều dựa trên ba hoặc bốn tháng phân tích theo dõi, có nghĩa là chúng tôi không thể nói gì về khả năng bảo vệ lâu dài [của vacxin], hoặc về tác dụng phụ của chúng”, bà Swaminathan nói.
Bà nói thêm: “Trong các điều kiện khác, bạn sẽ không bao giờ sử dụng vắc xin với thời gian hạn chế như vậy. Nhưng bởi vì chúng ta đang ở trong đại dịch, chúng ta phải cân bằng giữa rủi ro và nhu cầu thiết yếu".
Với nhiều quốc gia hiện đang trải qua sự gia tăng các ca lây nhiễm COVID-19, các quan chức y tế đang cảnh báo chống lại sự tự mãn và kêu gọi các chính phủ và cá nhân cảnh giác.
Khi nào mọi người sẽ được tiêm vacxin?
Cũng có nhiều câu hỏi về việc bao lâu nữa mọi người sẽ có thể tiêm vacxin thành công, vì các quốc gia và khối quốc gia giàu có hơn đã tuyên bố về những liều tiêm đầu tiên.
Và sau đó là các vấn đề hậu cần. Ví dụ, ứng cử viên Pfizer-BioNTech cần được bảo quản ở nhiệt độ -80 độ C (-112 độ F). Điều này có nghĩa là nó đòi hỏi một chuỗi phân phối làm lạnh từ các nhà sản xuất đến sân bay đến các vùng sâu vùng xa - một viễn cảnh đầy thách thức đối với các nước nghèo hơn với dân số nông thôn lớn thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các đợt nắng nóng nghiêm trọng và thiếu điện.
Để dễ dàng phân phối, Pfizer-BioNTech thông báo họ sẽ cung cấp các thùng chứa “gói đá khô” có thể duy trì nhiệt độ -70C (-94F) trong tối đa 10 ngày.
Sáng kiến Covax do WHO và Liên minh Đổi mới về phòng dịch (CEPI) thực hiện nhằm thu hút sức mua của các quốc gia để phân phối ít nhất 2 tỷ liều vacxin tiềm năng vào cuối năm 2021.
Tháng trước WHO cho biết họ muốn đảm bảo 230 triệu liều vacxin cho châu Phi. Tuy nhiên, Giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh châu Phi cảnh báo rằng số lượng này sẽ không đáp ứng được nhu cầu của châu lục này.
Khi vacxin đến tay, những nhóm nguy cơ cao nhất như người cao tuổi, chuyên gia y tế và nhân viên chăm sóc sẽ được ưu tiên trước, trong khi những người dưới 50 tuổi và không có vấn đề sức khỏe tiềm ẩn sẽ là những người cuối cùng được tiêm.
Điều này có nghĩa là một số nhóm dễ bị tổn thương có thể được tiêm phòng trong vài tuần.
Khan, bác sĩ tại Dịch vụ Y tế Quốc gia Vương quốc Anh cho biết: “Chúng tôi đã được yêu cầu sẵn sàng tiêm vacxin cho các nhóm nguy cơ cao vào cuối tháng 12, đầu tháng 1”.