Chuyển đổi để phục vụ chính người dân trong nước
Phát triển kinh tế - xã hội kết hợp bảo vệ môi trường là một xu hướng tất yếu và là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy thoái tài nguyên thiên nhiên đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng như hiện nay. Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã nêu rõ nguyên tắc, môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Từ thực tế ấy, ngày càng nhiều hơn những hoạt động liên quan đến chuyển đổi xanh diễn ra. Về cơ bản, chuyển đổi xanh gồm 2 tiêu chí chính: tiết kiệm, chuyển đổi năng lượng và duy trì được hệ sinh thái trong quá trình sản xuất (đảm bảo tính đa dạng sinh học).

PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường. Ảnh: Bảo Thắng.
Chuyển đổi xanh mang lại hiệu quả đa chiều cho kinh tế, môi trường, đóng góp quan trọng, hiệu quả vào phát triển bền vững. Việt Nam là nước nông nghiệp, lại đang muốn rút ngắn quá trình thực hiện những mục tiêu bền vững. Rõ ràng, không gì tốt hơn việc nông nghiệp sẽ đi đầu, là động thức thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, giúp tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường toàn cầu.
Đã có nhiều mô hình chuyển đổi hệ thống sản xuất nông nghiệp từ nâu sang xanh. Có thể kể đến như nông nghiệp sinh thái, hướng tới sự cân bằng của hệ sinh thái, tăng cường sử dụng các biện pháp sinh học để phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ đất và nguồn nước. Một số ví dụ điển hình, gồm canh tác hữu cơ, luân canh cây trồng, nông lâm kết hợp…
Ngoài ra còn nông nghiệp tuần hoàn, hướng tới việc tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên, giảm nhiều nhất lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón hữu cơ, khí sinh học, hoặc tái chế chất thải nông nghiệp là những ví dụ.
Nông nghiệp thông minh, giúp tối ưu hóa sử dụng tài nguyên, giảm lãng phí; hay phát triển nông nghiệp gắn với bảo tồn, bằng cách chọn tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi bản địa, bảo vệ các khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao… Tất cả đều là minh chứng cho việc hài hòa lợi ích giữa phát triển nông nghiệp với bảo vệ môi trường.
Có một chi tiết đáng chú ý, những cách làm, mô hình như vậy giờ được nhiều tổ chức, cá nhân, địa phương và doanh nghiệp quan tâm, đầu tư và triển khai ở nhiều khu vực trên cả nước. Điều ấy cho thấy, sản xuất bền vững, thân thiện môi trường đã từng bước vượt qua những thách thức đến từ tập quán canh tác, nhận thức của người nông dân, cũng như chi phí đầu tư ban đầu, thiếu hụt công nghệ và quan trọng nhất là thị trường đầu ra.
Cho đến nay, phải thừa nhận rằng thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp xanh còn hạn chế, dẫn đến khó khăn trong việc đảm bảo thu nhập cho nông dân, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết là thiết lập các chuỗi cung ứng và hệ thống chứng nhận sản phẩm xanh, nhằm thúc đẩy thị trường này.
Để vượt qua những thách thức này, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, bao gồm chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, và nông dân. Đặc biệt, phải nghiên cứu và triển khai thực hiện các chính sách một cách đồng bộ, từ dịch vụ hỗ trợ tài chính, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh đến đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và kết nối giao thương tới người tiêu dùng.
Một lưu ý nữa, là lâu nay chúng ta thường liên tưởng chuyển đổi xanh với xuất khẩu, hoặc tạo ra những sản phẩm có giá trị cao. Thực tế, với thị trường 100 triệu dân, nhu cầu lợn sạch, rau sạch… trong nước là rất lớn. Người dân ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM luôn có nhu cầu lớn về thực phẩm xanh mỗi ngày và đó hoàn toàn là cơ hội để những ai thực sự muốn chuyển đổi xanh có thể khai thác.
Thoát bẫy thu nhập trung bình, cởi bỏ suy nghĩ đơn giá trị
Chuyển đổi xanh chỉ là một trong số rất nhiều cố gắng để giải quyết vùng giao thoa về quản lý Nhà nước giữa ngành nông nghiệp và môi trường.
Từ lâu, việc chồng chéo thẩm quyền, thiếu sự thống nhất trong chính sách, chỉ đạo điều hành giữa Bộ NN-PTNT và Bộ TN-MT được xác định là rào cản, gây khó khăn cho việc thực hiện đồng bộ mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đồng thời bảo vệ tài nguyên môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ví dụ điển hình là sự khác biệt trong cách tiếp cận về sử dụng đất. Trong khi Bộ NN-PTNT tập trung vào việc mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lương thực, thực phẩm cho người dân trong nước và xuất khẩu, thì Bộ TN-MT lại ưu tiên bảo vệ diện tích rừng tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì và phát triển các hệ sinh thái quan trọng. Việc thiếu tiếng nói chung dẫn đến khó khăn trong kiếm tìm giải pháp tối ưu, dung hòa lợi ích của phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

Người dân sống xung quanh Vườn quốc gia Tràm Chim đang nỗ lực tạo ra những khu vực phù hợp với sinh cảnh của sếu đầu đỏ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Mọi chuyện sẽ khác từ ngày 1/3, khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường chính thức đi vào hoạt động, giúp giải quyết triệt để những tồn tại, bất cập kéo dài trong việc phối hợp chính sách giữa hai lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, vốn là hai trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Chúng ta có thể yên tâm, rằng nếu phát triển sản xuất theo đúng định hướng, quy hoạch và có phương án hỗ trợ, đảm bảo sinh kế cho người dân, tự hoạt động ấy sẽ mang đến những lợi ích cho môi trường.
Bản thân tôi từng tham gia, nghiên cứu và đề xuất một số vấn đề liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường rừng (ở nước ngoài là chi trả dịch vụ hệ sinh thái) và nhận thấy, rằng đó là điều hoàn toàn khả thi.
Tiền dịch vụ môi trường từ các công ty khai thác thủy điện được chi trả một phần cho những hộ dân trồng rừng, sống tại vùng đệm, giúp họ yên tâm giữ rừng, không xâm hại và sản xuất trong rừng trái phép. Từ đó, Việt Nam sẽ có nhiều hàng hóa “xanh hơn”, không có nguồn gốc từ các vùng trồng gây mất rừng và dễ dàng hơn trong việc đáp ứng yêu cầu ngày một khắt khe của thị trường quốc tế, ở đây là EUDR.
Dưới vai trò một lĩnh vực thống nhất, nông nghiệp và môi trường còn kế thừa nhiều bài học kinh nghiệm cũ. Chẳng hạn, thành công trong chi trả dịch vụ môi trường rừng sẽ tiếp tục được phát huy khi Bộ mới triển khai chi trả dịch vụ môi trường đất ngập nước, dịch vụ môi trường biển, hoặc thiết lập các khu bảo tồn biển, khu dự trữ sinh quyển trên khắp đất nước.
Việt Nam từng vấp phải bẫy “thu nhập trung bình”, nguyên nhân bởi thiếu những tư tưởng mới và lãng phí nguồn lực. Tin rằng, với xuất phát điểm từ nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên thiên nhiên, chúng ta sẽ có thêm nhiều chính sách đồng bộ để giải quyết các điểm nghẽn về thể chế trước đây, đưa nông nghiệp thực sự trở thành thế mạnh của quốc gia và môi trường là nền tảng cho phát triển bền vững.
Trong tương lai gần, người nông dân ngoài bán lúa còn có thể bán tín chỉ carbon từ việc canh tác giảm phát thải. Và có lẽ khi ấy, chuyển đổi xanh sẽ không còn "đơn giá trị" trong mắt mọi người.