| Hotline: 0983.970.780

Đa dạng sinh kế dưới tán rừng ngập mặn

Thứ Tư 22/03/2023 , 07:03 (GMT+7)

Ngoài nguồn thu chính là cây rừng, đời sống người dân Cà Mau phát triển đa dạng sinh kế từ nguồn tài nguyên thiên nhiên dưới tán rừng ngập mặn.

Empty

Rừng ngập mặn là nơi tạo sinh kế cho hàng ngàn hộ dân tại Cà Mau. Ảnh: Trọng Linh.

Lấy ngắn nuôi dài để trồng rừng gỗ lớn

Sản phẩm gỗ được dự báo sẽ tiếp tục khó khăn trong khâu đầu ra, do đó việc triển khai nhiều mô hình kết hợp dưới tán rừng để đa dạng sinh kế, tạo ra nhiều nguồn thu đang là hướng đi có thể giúp người dân trong lâm phần vượt qua khó khăn, yên tâm bám đất, giữ rừng phát triển kinh tế bền vững.

Rừng bao đời nay là chốn mưu sinh của hàng trăm nghìn người tại tỉnh Cà Mau. Trong đó, số hộ được giao đất giao rừng (chủ rừng, bìa đỏ) là 5.143 hộ, số hộ được giao khoán (hợp đồng sổ bìa xanh) là 17.457 hộ. Do đó, mọi biến động giá lâm sản tác động rất lớn đến đời sống người dân.

Ngoài nguồn thu chính là cây rừng, đời sống người dân còn phụ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dưới những tán rừng ngập mặn.

Hiện nay, trong khi cây tràm, cây đước giá bấp bênh, hiện giá cây keo lai cho thu nhập ổn định. Giá bình quân cây tràm khoảng 50-60 triệu đồng/ha, keo lai 120-160 triệu đồng/ha và cây đước 120-150 triệu đồng/ha.

Giá cây rừng ở Cà Mau do chủ yếu gỗ nhóm VI nên giá bán thấp. Ngoài ra, dưới tán rừng rất đa dạng, phong phú nguồn thu nhập từ con tôm sinh thái, cua, cá, lúa, cây ăn trái hay mật ong... đây là phần sản xuất kết hợp dưới tán rừng và còn thêm phát triển du lịch sinh thái mới nhiều được.

Empty

Trồng rừng gỗ lớn đang mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân vùng U Minh Hạ. Ảnh: Trung Chánh.

Ông Lê Văn Hải, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Cà Mau cho biết, đối với 1ha trồng keo lai vốn đầu tư từ 40 - 50 triệu đồng, sau 4 - 5 năm có thể thu từ 160 - 200 triệu đồng, từ 7 - 9 năm thành gỗ lớn thu nhập từ 300 - 400 triệu đồng. Thời gian tới, phía chi cục sẽ tiếp tục kết hợp với huyện, xã triển khai mô hình rừng gỗ lớn đối với những khu vực bờ cao để phát triển keo gỗ lớn.

“Ðể tạo đầu ra ổn định và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm gỗ, thời gian qua ngành lâm nghiệp tỉnh Cà Mau đã mời gọi nhiều doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy. Ðã có nhiều nhà đầu tư đến làm việc, tìm hiểu nhưng đa phần đều có yêu cầu được thuê diện tích đất khá lớn, từ 500 - 1.000ha. Ðây là vấn đề tỉnh khó có thể đáp ứng được, do đó dù có nhiều nhà đầu tư nhưng đến nay cũng chỉ dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu”, ông Hải chia sẻ thêm.

Tuy nhiên, theo tư lệnh ngành lâm nghiệp tỉnh Cà Mau, dù cây keo lai có giá nhưng phải hết sức cân nhắc, chuyển đổi phù hợp tỷ lệ cân đối, để tránh tình trạng cung vượt cầu, giá lại xuống thấp như cây tràm hiện nay.

Song song với đó, tập trung tiến tới khai thác diện tích mặt liếp, mặt nước và cả kết hợp du lịch sinh thái dưới tán rừng để nâng hiệu quả kinh tế lâm nghiệp. Ðặc biệt, kết hợp liên doanh, liên kết chuỗi với các đơn vị khác từ trong và ngoài tỉnh để kêu gọi đầu tư, cũng như tìm đầu ra bền vững cho gỗ.

Empty

Dưới tán rừng ngập mặn người dân số thể phát triển kinh tế nhờ con tôm, cua cá. Ảnh: Trọng Linh.

Đủ trang trải cuộc sống từ sinh kế phụ

Tỉnh Cà Mau có diện tích đất lâm nghiệp hơn 143.600ha với hơn 93.000ha diện tích có rừng. Trong đó, diện tích rừng ngập mặn là hơn 98.400ha (hơn 54.700 ha diện tích có rừng), diện tích rừng U Minh Hạ là hơn 45.000 ha (hơn 38.000 ha diện tích có rừng).

Ngoài nguồn thu nhập chính từ trồng rừng, người dân còn đa dạng nguồn thu để để sinh kế như nghề lấy mật ong, chuối, cá, lúa và cả du lịch sinh thái cộng đồng… đã và đang mang lại nguồn kinh tế hiệu quả.

Ông Nguyễn Văn Lời, ngụ ấp 15, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, có 3 mảnh đất, trong  đó 2 mảnh đất được gia đình lên liếp trồng tràm theo hình thức thâm canh, hiện được hơn 3 năm tuổi, thời gian qua do giá gỗ tràm giảm thấp khiến thu nhập gia đình giảm hơn trước. Tuy nhiên, nhờ khai thác tốt phần diện tích mặt nước, bờ bao để nuôi cá, trồng chuối và cây ăn trái đã giúp gia đình không phải quá trông chờ vào sản phẩm cây gỗ.

Ông Lời chia sẻ, nếu giá không lên sẽ chuyển sang trồng rừng gỗ lớn. Có thể sẽ gặp chút khó khăn nhưng được giá cao đầu ra ổn định hơn. Nguồn thu từ chuối, cây ăn trái và các sản vật khác dưới tán rừng cũng có thể giúp gia đình phát triển kinh tế ổn định.

Empty

Nghề gác kèo ong một trong những nét văn hóa đặc sắc của người dân U Minh. Ảnh: Trung Chánh.

Tạo sinh kế phụ là hướng đi phổ biến hiện nay trong các lâm phần trên cả nước. Nói là sinh kế phụ nhưng nhiều mô hình nuôi động vật hoang dã như chồn, nhím, bồ câu... tại một số vùng rừng ở các tỉnh ÐBSCL đã giúp nhiều bà con trong lâm phần trở nên giàu có.

Nói đến sinh kế phụ, ông Lý Minh Kha, Phó giám đốc Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, cho biết cần nhiều hơn nữa mô hình sinh kế phụ để phục vụ sinh hoạt và cuộc sống hàng ngày trong thời gian chờ đợi nguồn thu chính là cây rừng.

Còn như hiện nay phụ thuộc quá lớn vào cây rừng mà giá trị mang về lại thấp thì người dân khó có thể phát triển lên được. Cho đến lúc này, hướng đi mang lại hiệu quả cao nhất là phát triển du lịch sinh thái, ông Kha nhận định.

Empty

Ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Cty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ chia sẻ với PV NNVN, Ảnh: Trọng Linh.

Ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Cty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, cho biết: Phát triển du lịch sinh thái cũng là hướng đi mà Cty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ đang lựa chọn. hiện nay Khu Du lịch sinh thái Sông Trẹm đang phát triển khá tốt, công ty đang tập trung phát triển các loại hình du lịch để tăng giá trị nguồn thu từ rừng.

Theo định hướng phát triển kinh tế lâm nghiệp từ nay đến năm 2030, tỉnh Cà Mau xác định giải pháp đột phá là tập trung phát triển mạnh mô hình chuỗi lâm nghiệp, để khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu giữa biên độ rừng trồng và chế biến sâu, tức trồng rừng đi đôi với chế biến sâu.

Cụ thể, đến năm 2025 đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất rừng bình quân 5%/năm; giá trị gia tăng bình quân 4%/năm; năng suất rừng trồng đạt bình quân 30m3/ha/năm. Diện tích rừng trồng sản xuất được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt khoảng 10.000 ha…

Ðể đạt được những mục tiêu này, ngành lâm nghiệp đã xác định khâu đột phá cho kinh tế lâm nghiệp là tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Chỉ có hình thành được chuỗi lâm nghiệp mới có tính chất bền vững, tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người trồng rừng và hình thành được thị trường Hydro Cacbon trong lĩnh vực lâm nghiệp.

Empty

Phát triển du lịch sinh thái đang được nhiều du khách trong và ngoài nước rất thích khám phá hiện nay. Ảnh: Trung Chánh.

Là địa phương có diện tích rừng hơn 45.000 ha, chiếm hơn 56% diện tích tự nhiên của huyện, với 6 xã, có 6.700 hộ được giao đất giao rừng, cùng 13 đơn vị trực tiếp quản lý, bảo vệ rừng, huyện U Minh đang tập trung nhiều giải pháp để tạo đột phá trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.

Ông Lê Hồng Thịnh, Phó chủ tịch UBND huyện U Minh cho biết, huyện đang tập trung tuyên truyền bằng nhiều hình thức để nâng cao nhận thức của người dân. Ðồng thời, triển khai các mô hình kinh tế, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong trồng rừng, nhất là diện tích trồng rừng tập trung gỗ lớn để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nâng cao đời sống người dân dưới tán rừng. Liên kết trong sản xuất, tạo vùng nguyên liệu tập trung chất lượng cao phục vụ phát triển ngành chế biến sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp để tiến tới mục tiêu kinh tế rừng được phát triển nhanh nhất, bền vững nhất, công tác bảo vệ, quản lý rừng đạt kết quả tốt nhất, đời sống người dân trong lâm phần phát triển tốt nhất. Từ đó, không chỉ góp phần vào sự phát triển chung của kinh tế toàn tỉnh, mà còn phòng, chống thiên tai, biến đổi khí hậu.

Xem thêm
Trồng 33.000 cây xanh tại Vườn quốc gia Xuân Sơn

Các đơn vị trồng mới 33.000 cây, trong đó 3.000 cây bản địa (cây mỡ) và 30.000 cây keo tại vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn.

Cứu hộ thành công cá thể gấu ngựa bị cụt chi trước

HÀ NỘI Từ đầu năm 2024 đến nay, Chi cục Kiểm lâm thành phố Hà Nội đã bàn giao 5 cá thể gấu cho Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam.

Đặc sắc lễ cúng thần rừng của người Mông Nà Hẩu

Lễ cúng thần rừng là nghi lễ độc đáo được người Mông ở xã Nà Hẩu tổ chức vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hàng năm.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm