Phát biểu về vấn đề mã số vùng trồng tại Diễn đàn “Tăng cường các giải pháp phát triển bền vững sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trái cây chủ lực phía Nam” ngày 8/6, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Vina T&T Group kiến nghị, việc cấp mã số vùng trồng cần đi trước một bước trước khi mở cửa thị trường. Điển hình như với quả bưởi sắp được xuất khẩu sang Mỹ nhưng việc tìm được mã số vùng trồng quả bưởi với doanh nghiệp rất khó khăn.
“Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đi tìm vùng nguyên liệu được cấp mã số vùng trồng để thu mua gặp rất nhiều khó khăn, dễ trùng lặp, vướng mắc với các đơn vị, doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, việc cấp chứng nhận mã số vùng trồng theo từng năm sẽ khó khăn cho doanh nghiệp khi phải liên tục xin cấp lại chứng nhận, điều này vô hình chung sẽ làm cho công tác xuất khẩu, bàn giao đơn hàng cho đối tác quốc tế bị chậm trễ”, ông Nguyễn Đình Tùng nêu vấn đề.
Ngoài ra, đại diện Công ty Xuất nhập khẩu Vina T&T Group cho rằng, một doanh nghiệp không thể tự mình đi tới tất cả các địa phương để làm mã số vùng trồng. Do đó, các địa phương nên chủ động xây dựng những vùng trồng được cấp mã số để khi những doanh nghiệp có nhu cầu, đăng ký, địa phương cung cấp sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
Trước vấn đề này, ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT) thông tin, hiện Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) cũng đã hướng đến triển khai cấp mã số vùng trồng cho thị trường mục tiêu để khi mở cửa thị trường là sản phẩm có thể đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngay.
Tuy nhiên, để đạt được các tiêu chí cấp mã số vùng trồng thì nỗ lực của nông dân, các địa phương rất quan trọng. Mã số vùng trồng giờ không chỉ cho xuất khẩu mà còn tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong nước.
Hiện nay đã có 4.000 mã số vùng trồng (300.000 ha) tại 50/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được cấp cho 12 loại quả tươi như: chuối, thanh long, mít, nhãn, vải, xoài, chôm chôm, dưa hấu, măng cụt, chanh leo…
Trong đó, khu vực ĐBSCL được cấp 1.561 mã (chiếm tỷ lệ 39,02%), Đông Nam bộ có 224 mã (chiếm 5,6%), Tây Nguyên 168 mã (tỷ lệ 4,2%).
Bên cạnh đó, 1.864 mã số cơ sở đóng gói đã được cấp cho các loại quả tươi được phép xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản… trên 37 tỉnh, thành phố.
Tuy nhiên, theo ông Tùng, việc cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói hiện nay vẫn đang gặp những khó khăn như: Mới triển khai chủ yếu đối với cây ăn quả, chưa triển khai được nhiều với các sản phẩm có khối lượng xuất khẩu lớn như lúa, chè, hồ tiêu, cà phê,... Vẫn còn tình trạng mạo danh mã số vùng trồng, sử dụng không đúng mã số để xuất khẩu làm ảnh hưởng đến uy tín của hàng Việt Nam.
Trong khi đó, hiện nay, thị trường Trung Quốc ngày càng siết chặt việc kiểm soát đối với sản phẩm nhập khẩu, trong đó có tăng cường giám sát vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Theo ông Lê Văn Thiệt, Phó Cục trưởng Cục BVTV, trong thời gian qua Việt Nam đã xuất khẩu nông sản sang nhiều thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand. Trong năm 2019, khi Trung Quốc yêu cầu cấp mã số vùng trồng cho 8 loại quả tươi, tiếp nhận chỉ đạo của Bộ NN-PTNT, Cục BVTV đã cấp mã số vùng trồng cho các địa phương.
Trong quá trình chuẩn bị cấp mã số vùng trồng, Cục BVTV đã ban hành hai tiêu chuẩn cơ sở: Tiêu chuẩn 774 quy định về mã số vùng trồng, và Tiêu chuẩn 775 quy định về mã số nhà đóng gói.
Theo ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT), hiện nay thị trường đang xuất hiện nhiều xu hướng tiêu dùng mới mà các doanh nghiệp cần phải hết sức lưu tâm, thay đổi cho phù hợp như: Thực phẩm dựa trên nguồn gốc thực vật; xu hướng trở về với cội nguồn; đề cao trách nhiệm chung của ngành hàng trái cây; thay đổi mức tiêu dùng sau đại dịch; tiếng nói của người tiêu dùng…