Hạn chế
Với 21,1 ngàn ha chè, Thái Nguyên có 775 tổ chức, cá nhân được cấp quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể chè Thái Nguyên. Gồm 12 Cty, 5 doanh nghiệp tư nhân, 17 HTX, câu lạc bộ, làng nghề; 3 đại lý và 738 hộ gia đình. Trên địa bàn tỉnh có 12 Cty, 6 HTX đã xây dựng thương hiệu riêng cho các sản phẩm chè của đơn vị.
Những kết quả đạt được từ sản xuất chè đã góp phần nâng cao thu nhập, giúp nhiều nông hộ làm giàu. Tuy nhiên, sản phẩm chè của Thái Nguyên chủ yếu vẫn tiêu thụ ở thị trường trong nước. Mặc dù tổng sản lượng chè đạt gần 195 nghìn tấn song sản lượng chè xuất khẩu chỉ chiếm 20%.
Trong khi đó, chất lượng, giá trị, sức cạnh tranh sản phẩm chè chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng chè “đệ nhất”. Sản xuất, sơ chế chè của người dân chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công truyền thống, quy mô hộ; chưa có quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Mô hình vùng sản xuất chè ứng dụng công nghệ cao của tỉnh còn ít; sản phẩm chè được chế biến công nghiệp chủ yếu là nguyên liệu thô có chất lượng và giá trị kinh tế thấp; các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào sản xuất, chế biến chè công nghệ cao cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu chưa nhiều.
Ngoài ra, tỷ lệ sản xuất chè theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) hoặc GAP khác còn thấp (toàn tỉnh hiện mới có 640ha chè sản xuất theo quy trình này); cơ sở hạ tầng vùng sản xuất tập trung chưa được đầu tư đồng bộ; thương hiệu chè Thái Nguyên chưa phát huy được tiềm năng thế mạnh; chưa hình thành được liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Một thực tế đáng bàn nữa là trình độ nhận thức của người dân vùng chè không đồng đều nên giá trị sản phẩm thu được giữa các vùng chè đang có một sự chênh lệch rất lớn.
Bà Lê Thị Thuý Nguyên, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Phú Lương cho biết, Phú Lương luôn được coi là một trong những vùng chè trọng điểm của tỉnh nhưng chất lượng, giá trị sản phẩm chè giữa các vùng trồng chè không đồng đều.
Ví dụ, cùng là ở xã Phú Đô, nhưng những hộ sản xuất chè ở các xóm phía Nam của xã với kinh nghiệm trồng chè lâu năm, lại nhanh nhạy trong tiếp nhận các tiến bộ khoa học, kỹ thuật nên năng suất, sản lượng và chất lượng chè ở khu vực này đạt cao. Giá chè thành phẩm có thể lên tới 300 - 500 nghìn đồng/kg.
Còn với những xóm ở phía bắc của xã, do chủ yếu là vùng đồng bào dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông... sinh sống, trình độ nhận thức còn hạn chế nên bà con chưa mạnh dạn ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất chè. Bởi vậy, năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm chè ở các xóm này đạt thấp, giá bán mỗi kg chè chỉ bằng 30 - 50% so với các xóm phía nam.
Chuyển dịch
Ông Ngô Xuân Hải, GĐ Sở NN-PTNT Thái Nguyên cho biết, ngoài những bất cập nêu trên thì cây chè Thái Nguyên đang gặp không ít khó khăn trước những cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm nông sản trong nước khi hội nhập. Nhất là khi trình độ lao động nông nghiệp của địa phương trong sản xuất sản phẩm chè hàng hoá còn nhiều hạn chế...
Do đó, để cây chè phát triển bền vững, đáp ứng được yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, đòi hỏi các cấp, ngành liên quan phải có một lộ trình thích hợp.
"Dự kiến, giai đoạn 2016 - 2020, Thái Nguyên sẽ xây dựng 7 mô hình vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sản xuất chè an toàn tại các địa phương là vùng chè trọng điểm của tỉnh như Đại Từ, Phú Lương, Định Hoá, Đồng Hỷ, Phổ Yên, TP Thái Nguyên...", ông Hoàng Văn Dũng. |
Theo đó, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, sức canh tranh và phát triển bền vững các sản phẩm chè Thái Nguyên là đích đến của Thái Nguyên trong 5 năm tới.
Trong đó, mục tiêu cụ thể, đến năm 2020 diện tích chè giống mới sẽ chiếm 80% tổng diện tích chè toàn tỉnh, tăng gần 20% so với hiện nay (hiện nay có 13,2 ngàn ha chè giống mới, chiếm 65% tổng diện tích chè).
Ngoài ra, tỉnh sẽ đẩy mạnh việc hỗ trợ sản xuất chè và chứng nhận an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP hoặc GAP khác; tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm chè.
Về giải pháp, để thực hiện được mục tiêu đề ra, trong những năm tới, Thái Nguyên sẽ tiếp tục hỗ trợ trồng mới, trồng thay thế chè theo hình thức hỗ trợ 50% giá giống; khuyến khích nông dân ứng dụng khoa học và công nghệ để tiếp tục tăng năng suất, sản lượng chè, phấn đấu năm 2020, diện tích chè của tỉnh dự kiến đạt 23 nghìn ha; năng suất chè búp tươi đạt 115 tạ/ ha; sản lượng đạt 240 nghìn tấn. Trong đó, nguyên liệu chè búp tươi cho sản xuất sản phẩm chè xanh chất lượng chiếm 80% trở lên.
Liên quan đến nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm chè, ông Hoàng Văn Dũng, PGĐ Sở NN-PTNT Thái Nguyên cho biết, một trong những giải pháp mang tính đột phá trong phát triển cây chè là tỉnh sẽ tăng nhanh diện tích sản xuất chè an toàn. Theo đó, mục tiêu đề ra là đến năm 2020, Thái Nguyên sẽ có trên 16,8 nghìn ha thuộc vùng sản xuất chè an toàn, tập trung đủ điều kiện chứng nhận “Cơ sở đủ điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm”.
Tỉnh và các địa phương cũng đẩy mạnh việc tăng tỷ lệ chế biến công nghiệp, ứng dụng cơ giới hoá trong sơ chế, chế biến từ 50% sản lượng chè trở lên; xây dựng mô hình chế biến chè công nghệ cao để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Đặc biệt là việc phát triển cơ sở hạ tầng vùng sản xuất chè tập trung theo hướng hình thành vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.