I. Biển là hồn cốt văn hóa, lịch sử và tâm linh, nay đã mất trong cơn lốc xâm lấn của resort, khách sạn, cao ốc… Mai này, nhớ về biển, người làng Nam Ô còn chút gì để giữ, nơi mà bao thế hệ tổ tiên không chỉ người Kinh, mà cả người Chăm đã sống chết gìn giữ. Con cháu chắc cũng chỉ biết lần mò tìm lại chút di vật biển trong day dứt hoài niệm.
Quy hoạch xây dựng khu nghỉ dưỡng ở Nam Ô |
Hơn 700 năm, người làng Nam Ô vốn sống trên doi đất cửa sông Cu Đê ngay sát biển, cạnh ghềnh đá và khu rừng cấm. Tôi đi dọc Nam Ô, như hàng chục lần trước vẫn đi vào làng biển mỗi bình minh, để nhìn nhịp sống mỗi sáng bên bờ nước, những chài lưới về từ tinh sương mang vị mặn của biển, mang cá tôm đầy lòng thuyền, mang nụ cười trên khuôn mặt rắn rỏi nắng gió của ngư dân, mang cả tiếng cười bi bô của con trẻ bên mép sóng, của những bà những mẹ ngóng chồng về.
Nam Ô dẫu chỉ là một chấm nhỏ trên bản đồ của những làng biển trên khắp dải đất hình chữ S. Nhưng nơi đó không chỉ là làng biển. Ở đó chứa đựng đời sống tinh thần, tâm linh với dinh Âm hồn, lăng Cá Ông, miếu Bà Liễu Hạnh… Bao chiếc giếng vuông, nhiều hiện vật trưng bày tại Bảo tàng văn hóa Chămpa đã khai quật từ làng biển này.
Nam Ô là hồn cốt còn lại của làng biển. Nơi mà mỗi mùa cá cơm than, hàng trăm hộ dân lại tất bật đi biển, tất bật với nghề làm mắm cho hương vị mặn mòi của biển nổi tiếng khắp năm châu.
|
Rừng cấm và rạn đá ở Nam Ô |
Ở đó, những con ngõ chỉ vừa một gánh cá đi qua mỗi sáng nhưng người dân sống êm đềm chan hòa. Ở đó, lớp cha trước truyền lại cho lớp con sau kỹ thuật đan vá lưới, con mắt nhìn bắt lấy luồng cá, lớp người phụ nữ trước truyền cho lớp sau vị mặn lẫn độ lắng của chum mắm, cách dạy con bước chân đầu tiên dẫm xuống nền cát mịn, chờ cha ông đi biển trở về.
II. Tôi đi khắp làng Nam Ô, đâu đâu cũng thấy sự âu lo và những ánh mắt tiếc nuối. Nhiều ngôi nhà giờ chỉ còn là đống gạch vụn, lối xuống biển mấy ngày qua bị chặn lại bởi hàng rào dây thép.
Nếu như không có sự chỉ đạo kịp thời của Bí thư Thành ủy Trương Quang Nghĩa cấp tốc mở lối cho dân đi xuống biển và rà soát lại dự án, có lẽ không chỉ người Nam Ô mà người nơi khác đến chẳng còn đường xuống biển, chẳng còn lối ra ghềnh đá đẹp bậc nhất Đà Nẵng, chẳng còn thấy bình minh trên biển nữa.
“Cơn lốc” đầu tư du lịch resort của một tập đoàn đang được xây dựng, sau này sẽ xóa sổ hoàn toàn làng Nam Ô. Người Nam Ô thất thần. Di tích, đền miếu, cảnh quan, kể cả rừng cấm ngư dân đã giữ gìn buồn ngơ ngác, đứng trơ trọi giữa sóng và gió biển đang thổi ầm ào. Di tích mà chẳng có người, đền miếu không còn hương khói, rừng cấm chơ vơ…
Những lão ngư già cố vớt vát những chuyến biển cuối cùng, bởi mai này khi khu resort hoàn thành, chẳng còn biển mà rong thuyền mỗi sáng. Tay lưới sẽ phai màu tanh của cá, mái chèo và con thuyền sẽ nhạt vị biển vì không còn xuống nước, những đôi bàn chân sạn chai và những cánh tay săn chắc của các lão ngư cũng sẽ thôi màu nắng.
Buồn lắm chứ! Một lão ngư trầm ngâm bảo: “Cứ ra biển, rong thuyền và tồn tại đến khi mô thì chưa biết. Ngồi nhà, nhớ biển quá!”. Một đời với biển vốn đã long đong. Giờ già “thoát biển” lại long đong vì nhớ.
Bà lão ở Nam Ô ngóng thuyền về |
Lớp trẻ thì sao? Họ không mấy thiết tha theo nghề biển, nên không biết cái nhao nhác của bà con làng biển trước cơn đổi thay định mệnh. Với họ, vẫn mong làng thành phố, họ sẽ có nhiều cơ hội. Người buôn bán, người chạy xe, người làm nghề không dính dáng gì tới biển. Chỉ có người già, trung niên mới tiếc nuối. Mặn cũng từ biển, ngọt cũng từ biển.
Tất cả đều nhờ con thuyền ra khơi, hoặc len lỏi đến những ghềnh đá. Quy hoạch du lịch, không còn chỗ đậu thuyền, không còn đường lên lối xuống. Rời biển, lớp già hay sắp già sẽ làm gì để sống? Họ chưa rõ sẽ làm gì và làm được gì khi không còn bến để xuống biển. Cái kết thế nào?
Tôi đứng nhìn hàng rào ngăn người với biển mà đau. Hàng rào rồi sẽ đóng lại ký ức của những người Nam Ô một thời với biển. Cái cách mà Nam Ô chết cũng giống hệt với cái cách mà những làng chài cổ đã chết vì cơn lốc du lịch. Đó là làng chài Thanh Khê, Nại Hiên Đông, Mân Quang, Tân Thái, Tân Trà, An Đồn… biến mất giữa những cao ốc, khách sạn, khu nghỉ dưỡng.
Chiều trên làng Nam Ô, buồn thương và nhớ tiếc. Mai này, liệu có còn gì nữa cho Nam Ô?
Nam Ô, như tên gọi của nó, là ô cửa phía Nam của nước Đại Việt ta ngày trước, là một trong những ngôi làng cổ nhất phía Nam của Tổ quốc, trong vùng châu Ô châu Lý mà vua Chăm tặng Đại Việt ta làm của hồi môn để cưới Huyền Trân công chúa. Đây cũng là nơi cưu mang Huyền Trân khi bà trốn về Đại Việt. Tương truyền rằng vị tướng chiến đấu hy sinh để bảo vệ công chúa đã trở thành tiền hiền của ngôi làng này. Nam Ô từ lâu cũng là một trong những làng nghề nổi tiếng nhất nước ta: đánh cá, làm nước mắm và làm pháo. Pháo Nam Ô danh tiếng không kém Bình Đà (do lệnh cấm pháo nên đã dừng sản xuất). Nước mắm Nam Ô được phương Tây biết đến từ thế kỷ 17, những người sành ăn không ai là không khen ngợi. Nằm trên một bờ biển đẹp với những ghềnh đá độc đáo, người dân Nam Ô bao đời nay, dù trải qua nhiều cuộc chiến tranh dâu bể, vẫn sống yên lành với nghề nghiệp truyền thống của mình. Cho đến khi cơ quan có thẩm quyền quyết định giao nó cho các đại gia làm dự án. |