| Hotline: 0983.970.780

'Nhốt' cacbon và nitơ trong đất giảm hiệu ứng nhà kính

Thứ Ba 26/04/2016 , 08:35 (GMT+7)

TS Đào Đình Thuần, Phó trưởng Khoa Môi trường, Đại học Mỏ - địa chất vừa đề xuất phương pháp dùng kỹ thuật đồng vị xác định việc lưu giữ và chuyển hóa cacbon và nitơ trong đất. 

Từ đó xác định chế độ canh tác hợp lý trên nền đất phù sa cổ sông Hồng bảo đảm tăng năng suất, tiết kiệm nước và giảm hiệu ứng nhà kính.

Theo TS Đào Đình Thuần, tại Hội nghị COP21 (Pari, 2015) Chính phủ Việt Nam cam kết với cộng đồng quốc tế là đến 2030 sẽ cắt giảm 8% lượng phát thải khí cacbon so với kịch bản phát triển truyền thống để góp phần làm giảm các hiệu ứng làm biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Việc giảm phát thải khí cacbon có thể được thực hiện bằng những giải pháp khác nhau, trong đó ba giải pháp sau đây đang được nghiên cứu và triển khai trên thế giới.

Giải pháp thứ nhất là đầu tư công nghệ mới sử dụng tiết kiệm năng lượng hoặc sử dụng năng lượng tái tạo, giảm phần năng lượng từ đốt nhiên liệu hóa thạch.

Giải pháp thứ hai là tăng cường trồng rừng, như lời ông Trần Hồng Hà, Trưởng đoàn đàm phán của Việt Nam tại COP21, nay là Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, khi trả lời phỏng vấn phóng viên tại diễn đàn.

Giải pháp thứ ba là thay đổi chế độ canh tác truyền thống sang chế độ canh tác tiên tiến để tăng khả năng lưu giữ (sequestration) đồng thời kéo dài thời gian chuyển hóa (turnover time) của cacbon và nitơ trong đất.

Hai biện pháp sau liên quan đến nông nghiệp và chắc chắn là kinh tế hơn so với giải pháp đầu liên liên quan nhiều đến công nghiệp. Tăng lượng vật chất cacbon lưu giữ trong đất cũng sẽ làm cho tính chất của đất được cải thiện, đặc biệt là khả năng giữ độ ẩm của đất sẽ tăng lên.

Như vậy, cải thiện khả năng lưu giữ vật chất cacbon hữu cơ trong đất còn có ý nghĩa làm tăng hiệu quả sử dụng nước của cây trồng. Điều này rất có ý nghĩa với những vùng miền hay bị khô hạn trong điều kiện biến đổi khí hậu.

Các nghiên cứu kiểm kê lượng cacbon trong các bể chứa (sink) trên trái đất cho thấy đất là bể có năng lực lưu giữ cacbon lớn nhất. Lượng cacbon chứa trong đất là khoảng 1550 Mt (Mega tấn, 1 Mt = 01 triệu tấn), lượng cacbon trong thảm thực vật (phần phía trên bề mặt đất) là khoảng 950 Mt, trong không khí là 350 Mt và trong nước đại dương là khoảng 750 Mt.

Như vậy, ngoài giải pháp trồng rừng để tăng sinh khối, tức là tăng lượng cacbon trong thảm thực vật, thì nếu có những giải pháp canh tác hợp lý để tăng năng lực lưu giữ cacbon của đất và làm giảm mức phát thải khí cacbon cũng như các loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác cũng sẽ có kinh tế hơn so với đầu tư công nghệ mới, ít phát thải.

Ngoài CO2 còn phải kể đến N2O và methane (CH4) là hai loại khí cũng có khả năng gây hiệu ứng nhà kính làm biến đổi khí hậu và có một phần nguồn gốc phát sinh từ sản xuất nông nghiệp. Khí N2O có tính năng gây hiệu ứng nhà kính cao gấp 310 lần, còn khí CH4 cao gấp 21 lần so với CO2.

Từ những năm 1980 đến nay, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về thay đổi chế độ canh tác nông nghiệp để làm tăng lượng cacbon (C) và nitơ (N) được lưu giữ cũng như kéo dài hơn thời gian chuyển hóa C trong đất, trong đó một số công trình có áp dụng kỹ thuật đồng vị tự nhiên của C và N. Đồng vị bền cacbon-13 (13C) và nitơ-15 (15C) được sử dụng để định lượng khả năng lưu giữ C và N trong đất với các phương thức canh tác khác nhau dựa trên chu trình chuyển hóa của hai nguyên tố trên trái đất. Đồng vị phóng xạ cacbon-14 (14C) được sử dụng để đánh giá thời gian chuyển hóa của C theo độ sâu phẫu diện đất dựa trên quy luật phân rã phóng xạ của đồng vị này.

Các nhà khoa học nhận thấy rằng giảm tần suất cầy ải, luân canh, vùi sinh khối xuống đất (thay vì đốt), giảm lượng phân bón vô cơ nhưng tăng lượng phân chuồng, tối ưu hóa chế độ tưới nước đã làm tăng lượng C và N trong đất đồng thời thời gian chuyển hóa C và N trong đất cũng được kéo dài thêm, đến hàng trăm năm ở độ sâu 1m, so với phương thức canh tác truyền thống. Kỹ thuật đồng vị được các nhà khoa học nhận định là có độ chính xác cao trong các nghiên cứu định lượng mức lưu giữ và thời gian chuyển hóa C và N trong đất.

Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu định lượng nào về ảnh hưởng của chế độ canh tác đến năng lực lưu giữ C và N của đất cũng như thời gian chuyển hóa của chúng trong đất bằng kỹ thuật đồng vị.

Việt Nam là một nước nông nghiệp có diện tích lớn trồng cây ngắn ngày nhưng vẫn sử dụng chế độ canh tác truyền thống là cày ải trước mỗi vụ gieo trồng, đốt sinh khối sau thu hoạch, bón nhiều phân vô cơ và tưới nước bằng phương pháp chảy tràn.

Với phương thức canh tác lạc hậu như vậy nên lượng C bị mất đi do đốt và do xói mòn sẽ làm giảm thời gian lưu giữ và chuyển hóa trong đất, tức là làm tăng khả năng thoát khí nhà kính. Chuyển đổi phương thức canh tác nhằm tăng năng suất cây trồng đồng thời làm cho đất là một bể chứa vật chất cacbon và nitơ hữu hiệu làm giảm phát thải khí nhà kính là góp phần vào mục tiêu làm giảm 8% lượng khí cacbon so với kịch bản phát triển.

Dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn, TS Đào Đình Thuần đề xuất một chương trình thử nghiệm quốc gia bao gồm:

Lựa chọn cây trồng thích hợp giá trị kinh tế cao, nhiều người tiêu thụ, giống nội địa để thí nghiệm; Chăm sóc cây và lấy mẫu đất để xác định thành phần đồng vị (13C) và 15N cùng với tổng lượng cacbon, tỷ lệ C:N trong vật chất hữu cơ theo phẫu diện sâu từ 0 đến 100 cm : 3 lần/vụ (trước khi trồng cây, trong thời gian giữa chu kỳ sinh trưởng và sau khi thu hoạch); Lấy mẫu phân tích hoạt độ 14C (tự nhiên) theo phẫu diện đất để xác định tuổi của vật chất hữu cơ trong các lớp đất làm cơ sở đánh giá thời gian chuyển hóa/lưu giữ C và N trong đất; Hội thảo khoa học quốc tế về ảnh hưởng của chế độ canh tác nông nghiệp đến biến đổi khí hậu, nước biển dâng;

Theo tính toán mô hình canh tác mới được xác lập thì lượng C và N được lưu giữ trong đất sẽ tăng được từ 10 đến 15%; hiệu quả sử dụng nước của cây trồng sẽ tăng từ 20 đến 25%, tiết kiệm được 20% mức đầu tư cho phân bón vô cơ so với phương thức canh tác truyền thống.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm