Trong thời gian nuôi, cán bộ Trung tâm KN và Trạm Khuyến nông các huyện, TP đã xuống địa bàn thường xuyên để hướng dẫn kỹ thuật và kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh về môi trường, dịch bệnh đồng thời đưa ra những kinh nghiệm, những sáng kiến trong nuôi thủy sản để bà con áp dụng nhằm đem lại hiệu quả cao hơn.
Nhìn chung, các hộ tham gia mô hình đã tuân thủ và thực hiện đúng theo quy trình kỹ thuật, quản lý ao nuôi đạt yêu cầu đề ra. Sau 4 tháng thả nuôi ếch với tỉ lệ sống đạt 72%, trọng lượng bình quân 300 gr/con. Sản lượng bình quân đạt 269 kg/mô hình. Lợi nhuân 1.500.000 đ/mô hình. Mô hình nuôi cá lóc sau 6 tháng nuôi, tỷ lệ sống cá lóc đạt 74%, trọng lượng bình quân 400 gr/con. Sản lượng bình quân đạt 917 kg/mô hình. Lợi nhuận 6.700.000 đ/mô hình.
Theo ông Yên, bên cạnh những thành công nhất định, người nuôi thủy sản còn gặp khó khăn về chất lượng con giống, quy trình kỹ thuật, giá cả thức ăn, môi trường, dịch bệnh, thị trường tiêu thụ… đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế và khả năng nhân rộng mô hình. |
Các hộ tham mô hình đều nhận thấy được lợi ích của việc tận dụng diện tích nhỏ (30 - 50 m2) và thời gian nhàn rỗi để nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế. Đồng thời được nâng cao trình độ kỹ thuật, ứng dụng vào thực tế để tăng thêm lợi nhuận góp phần ổn định đời sống kinh tế hộ. Việc xã hội hóa và nhân rộng mô hình là rất khả quan. Trong buổi tổng kết mô hình, các ý kiến của người dân đều thống nhất:
- Mô hình nuôi được thực hiện trên các loại hình: Nuôi trong vèo, bể đất lót nylon đều có khả năng ứng dụng, nhân rộng phát triển cho những hộ ít vốn. Mô hình nuôi trong vèo ghép cá (rô, sặc rằn, trê…) trong ao vừa có thể tận dụng nguồn thức ăn rơi vãi từ thức ăn của cá lóc vừa hạn chế ô nhiễm môi trường từ nguồn thức ăn thừa.
- Việc sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế cho thức ăn cá tạp trong quy trình nuôi cá lóc thương phẩm có nhiều ưu điểm so với quy trình nuôi truyền thống sử dụng thức ăn cá tạp:
+ Không tốn nhiều công sức để đi mua và sơ chế trước khi cho ăn, giảm hẳn chi phí thuê nhân công.
+ Nguồn cung cấp và chất lượng thức ăn luôn chủ động và ổn định.
+ Giảm hẳn chi phí cho việc bổ sung các loại thuốc bổ giúp cá nâng cao sức đề kháng và tiêu hoá tốt do trong thức ăn công nghiệp các thành phần trên đã được tính toán phối trộn cẩn thận theo nhu cầu của cá.
+ Ít gây ô nhiễm nguồn nước, do đó giảm nhu cầu sử dụng nguồn nước và giảm tình trạng cá nhiễm bệnh do môi trường bị ô nhiễm.
- Theo kinh nghiệm của các hộ nuôi ếch, đối tưọng nuôi này không cần diện tích lớn, có thể tận dụng các ao bỏ hoang có nguồn nước tốt, hay những mảnh đất trống để đặt vèo hay lót bạc là có thể nuôi ếch thịt. Thức ăn cho ếch cũng rất đa dạng, có thể dùng cá biển, ốc bươu vàng xay nhuyễn cho ếch ăn hay cũng có thể dùng thức ăn công nghiệp.
Nuôi ếch mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều nông hộ nhưng bên cạnh đó cũng có không ít hộ nuôi thất bại. Nguyên nhân là do người nuôi chủ quan cho rằng ếch dễ nuôi nên không chú ý chăm sóc, học hỏi kinh nghiệm.
Phong trào nuôi ếch trên địa bàn tỉnh phát triển tự phát, manh mún, nhỏ lẻ nên rất khó quản lý, nhất là quản lý chất lượng ếch giống. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa, chưa thật sự ổn định, giá cả biến động thất thường làm tăng rủi ro cho các hộ nuôi.
Với những kiến thức, kinh nghiệm đã nắm được, tin rằng bà con sẽ áp dụng có kết quả vào thực tế các mô hình, cho các vụ nuôi sắp tới nhằm nâng cao thu nhập cho gia đình, góp phần hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.