Bi, hùng Nguyễn Trọng Oánh và Trần Hữu Thung

Xuân Ba - Thứ Tư, 02/08/2023 , 16:47 (GMT+7)

Nhớ năm đã xa ấy ghé nhà văn, tôi được tiếp cận hai bài thơ chữ Hán mà Quốc Trung lưu giữ đã lâu. Một của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh và Trần Hữu Thung.

Thương nhớ nhà văn Quân đội Nguyễn Quốc Trung năm kia bỏ mình trong trận Covid-19… Nhớ năm đã xa ấy ghé nhà văn, tôi có được tiếp cận hai bài thơ chữ Hán mà Quốc Trung lưu giữ đã lâu. Một của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh và một của nhà thơ Trần Hữu Thung.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Oánh.

Chất bi của Nguyễn Trọng Oánh

Bài thứ nhất của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh viết về nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn tức Nguyễn Thi.

Đó là bài thơ không đề. Hai người bạn từng ở số 4 Lý Nam Đế một thời gian dài. Từng cật ruột với nhau. Rồi cùng tham gia Mậu Thân.

Phiên âm:

Hữu thử sinh hề, hữu thử thân,

Nhĩ hà nhân dã, ngã hà nhân?

Thập niên vị giác hoàng lương mộng,

Thiên lý nan sưu bạch cốt trần.

Đảm khí hữu hoài siêu thế tục,

Trung hồn chung tự nịch mê tân.

Lục bình chiến mạo ô y khách,

Nam vọng Trường Sơn duy bạch vân.

Dịch nghĩa:

Có kiếp này chừ, có tấm thân này,

Anh là ai, tôi là ai?

Giấc mộng kê vàng mười năm chưa tỉnh,

Bụi trần xương trắng ngàn dặm khó tìm!

Lòng mang dũng khí vượt thế tục,

Anh hồn trung nghĩa nhấn chìm bến mê.

(Đâu rồi) người khách mũ tai bèo, áo đen,

Ngóng về Trường Sơn chỉ có làn mây trắng

Ở nhà số 4 Văn Nghệ Quân đội nhiều người nhận xét nhà văn nhà thơ Nguyễn Trọng Oánh người Khu Tư (quê ở Nghi Lộc) trong đời sống thường ngày và ngay cả tác phẩm là người can trường hơi chút… cực đoan! Nguyễn Trọng Oánh người gầy, đen, khuôn mặt khắc khổ. Khoác áo lính từ tuổi 17 cho tới lúc từ giã cõi đời. Luôn kiên định lập trường, ông khiến người đối thoại e ngại vì hễ nói chệch một tí là ông chỉnh liền. Cuốn Đất trắng, viết về chiến dịch Mậu Thân, là tác phẩm thành công nhất của ông, phản ánh đa chiều về cuộc chiến đấu, chủ đạo vẫn là âm hưởng anh hùng ca.

Nhưng trong bài thơ chữ Hán viết về Nguyễn Thi trong nỗi đau hụt hẫng mất bạn và tổn thất của cuộc chiến, Nguyễn Trọng Oánh dường như đột ngột ló dạng một tâm trạng khác?

Giấc mộng hoàng lương (nồi cháo kê) là điển tích nói về sự lỡ làng về thất bại mà các nhà thơ cổ điển thường dẫn, hay vận. Giấc mộng hoàng lương chợt tỉnh ra/ Mới hay muôn việc thảy không mà (Thơ Nguyễn Trãi ở bài Ngẫu thành).

Nếu nói âm hưởng chủ đạo của cả bài thơ là bi hùng thì không sợ sái?

Lòng mang dũng khí vượt thế tục, Anh hồn trung nghĩa nhấn chìm bến mê”.

Nhưng phần bi ở đây trội nổi hơn phần hùng. Đất trắng từng phản ánh đa chiều về cuộc chiến đấu thì trong bài thơ này người đọc không thể không xót xa, trĩu nặng mãi một tâm trạng về cái mất mát Giấc mộng kê vàng mười năm chưa tỉnh/ Bụi trần xương trắng ngàn dặm khó tìm! Nhưng phải nương phải chiểu từng chữ của ngữ nghĩa từ Hán thì mới gẫm và thấm sâu cái phần bi trong hai câu rất u hoài, thần thái trong bài thơ “Thập niên vị giác hoàng lương mộng/ Thiên lý nan sưu bạch cốt trần”.

Nhiều người biết, cuộc đời Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi bộn bề những thua thiệt.

… Cậu bé Nguyễn Hoàng Ca, quê gốc Nam Định, con một chiến sĩ cách mạng đã phải theo mẹ vào tù đến 6 tháng. Khi ra tù, để tiếp tục hoạt động và mưu sinh, bà phải gửi con nhiều nơi.

Năm lên 9, cha mất vì bệnh lao, mẹ vừa phải tiếp tục gửi con vừa kiếm sống và hoạt động. Rồi đùng cái, mẹ đi bước nữa. Năm 1943, mới 15 tuổi, Ca lên tàu vào Sài Gòn nương nhờ nhà người anh cùng cha khác mẹ.

Cách mạng Tháng 8 - 1945, vừa 17 tuổi, Nguyễn Hoàng Ca đã gặp được đoàn thể cách mạng. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thành anh bộ đội và lấy tên là Nguyễn Ngọc Tấn. Suốt 9 năm liên tục ở các đơn vị chiến đấu cộng với chút năng khiếu văn nghệ: ca hát, nhảy múa, viết, vẽ… Nguyễn Ngọc Tấn đã thành một cán bộ chính trị, làm công tác tuyên huấn. Các bài thơ đầu đời được tập họp trong tập Hương đồng nội được các chiến sĩ truyền đọc, nhận Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long năm 1951.

Năm 1954 Nguyễn Ngọc Tấn lấy vợ tên là Bình Trang, một sinh viên Sài Gòn ra bưng biền kháng chiến.

Sau hiệp định Genever, anh theo đơn vị tập kết ra Bắc. Chị Trang được tổ chức bố trí ở lại tiếp tục hoạt động. Trở lại Bắc, anh đã gặp được người mẹ ruột của mình. Hoàn cảnh của bà đầy những trắc trở, bi thương. Bà đi tản cư, một mình nuôi mấy đứa con khốn khó. Năm 1951, bà trở về Thành hoạt động bí mật.  Ngày gặp lại, anh ở tuổi 27, bà mới 46, đang công tác ở Cơ quan Hội Phụ nữ tỉnh Nam Định.

Ngày gặp lại, biết con đã có vợ, có con ở trong Nam, bà mẹ vui mừng nhưng đã linh cảm thấy một ngày mai xa cách.

Trở về Sài Gòn hoạt động và nuôi con, chị Bình Trang nằm trong tầm truy kích ráo riết những người kháng chiến cũ, chị phải đóng giả vợ chồng để hợp thức hóa sinh hoạt. Và chị đã có thêm một người con. Được điều về Tạp chí Văn Nghệ Quân đội, nhận được tin này Ngọc Tấn đã bị sốc dữ dội. Mấy năm sau, Nguyễn Ngọc Tấn đã xây dựng gia đình mới với một cô thôn nữ phải khai thêm để đủ tuổi kết hôn.

Sau Đồng Khởi 1960, trong các lực lượng chi viện cho miền Nam, đã tính tới lực lượng báo chí, văn nghệ. Mặc dù ốm yếu và hoàn cảnh sáng tác rất thuận lợi (Hai tập truyện ngắn Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962), tập hợp các truyện đã đăng trên các báo trong thời gian đó được đánh giá cao) Nguyễn Ngọc Tấn vẫn xung phong đi B.

Năm 1962, Nguyễn Ngọc Tấn đi thẳng vào Nam Bộ. Phải đến năm 1965, bạn đọc mới được đọc các bài viết ký tên Nguyễn Thi, tên người con trai khi anh đi B mới có 6 tháng tuổi. Những Truyện và Ký viết chủ yếu trong 2 năm 1966-1967 đã làm nên một tên tuổi Nguyễn Thi gắn với giai đoạn miền Nam đau thương anh dũng. Nhà văn Nguyễn Thi tham gia Tổng tấn công đợt 2 Mậu Thân, khi đi theo một đơn vị đánh phản kích ở ngoại vi Thành phố. Cho đến nay, sau nhiều nguồn tin và cả tư liệu được viết thành văn, ngày hy sinh, trường hợp hy sinh, vị trí nơi nhà văn mất vẫn chưa được xác định chính xác. Mấy năm gần đây, theo lời người dân mách báo, gia đình và bạn bè đi xác minh và khai quật nhưng đều không có kết quả. Ngày hy sinh được báo tử là 9-5. Nhưng trên ngôi mộ gió trong nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố, đặt nằm cạnh Nhà thơ Anh hùng Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân, cả hai đều được ghi cùng một ngày mất 23/5/1968.

Tôi không biết được nhà thơ Nguyễn Trọng Oánh viết bài thơ chữ Hán này vào thời điểm nào nhưng dường như ông đã tiên liệu, đã chia ở thì tương lai cái phần u ám của hậu chiến?

Đau đớn một liệt sỹ Nguyễn Thi không biết thời gian và địa điểm hy sinh, không tìm thấy xác nhưng cái câu thiên lý nan sưu bạch cốt trần gẫm sâu mới thấy hết cái xót xa hiện tại bởi hàng vạn hài cốt liệt sỹ trải dài khắp phía Nam nay vẫn chưa tìm thấy?

Và nữa, cứ như thứ đồng bệnh tương lân. Cứ gai gai người khi gẫm lại hoàn cảnh hai nhà văn Nguyễn Thi và Nguyễn Trọng Oánh có một mẫu số chung là thua thiệt!

Nhất là những tất tả tật bệnh cùng ít nhiều cô đơn cuối đời của tác giả Đất trắng như vế đối vui của ai đó “đất trắng, người đen, bàn tay trắng”. Như một thứ dự báo gì đó về phần bi nhiều hơn phần hùng khi Nguyễn Trọng Oánh dẫn ra điển tích giấc mộng kê vàng mười năm chưa tỉnh. 10 năm đây không phải là con số là định lượng cụ thể mà là thứ hình dung từ để gọi sự dằng dặc lê thê của cả một đời người?

Tôi mạo muội coi đây là sự đa dạng phong phú và đượm chất nhân văn trong tính cách lẫn sáng tác của Nguyễn Trọng Oánh chứ chả thể khuôn vào sự cực đoan cứng nhắc nào đó? Lại chợt nhớ đến chất hài hước, tinh quái ông đồ Nghệ Nguyễn Trọng Oánh trong bài thơ vui bằng chữ Hán vịnh nhà văn Xuân Thiều từ đầu những năm sáu mươi Con đường văn nghiệp thương ông/ Lông đầu rụng hết như lông cái đầu/ Đôi vai gánh mãi càng đau/ Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền? Cũng nói về thua thiệt mất mát đấy nhưng nghe cứ nhẹ thênh? Chính bài thơ đó đã gợi ý cho Xuân Sách sau này viết hẳn tập Chân dung nhà văn độc đáo.

Nhà thơ Trần Hữu Thung.

Và chất hùng của Trần Hữu Thung

Bài thứ hai là của nhà thơ Trần Hữu Thung, chính xác là họa lại bài thơ của Nguyễn Trọng Oánh

Phiên âm:

Độc thử thi hề, niệm thử thân,

Vấn tâm vấn ngã vấn đồng nhân.

Thập niên kỷ độ hoài sinh mộng?

Thiên lý hà phương mịch cốt trần?

Cổn cổn văn phong lưu tỉnh tục,

Thao thao đảm khí tẩy mê tân.

Trường Sơn nam vọng ưu thời khách,

Ô giáp, binh quan chiếu bạch vân.

Dịch nghĩa:

Đọc bài thơ này chừ, nghĩ về tấm thân này,

Hỏi lòng, hỏi mình, hỏi đồng chí!

Mười năm bao lần ôm giấc mộng,

Ngàn dặm tìm đâu nắm xương tàn?

Văn phong dào dạt lưu cõi tỉnh,

Hùng khí cuồn cuộn rửa bến mê.

Ngóng về Trường Sơn, khách lo đời,

Áo đen, mũ chiến sĩ chiếu lên làn mây trắng.

Trần Hữu Thung nhà thơ nổi tiếng của đất Diễn Châu xứ Nghệ vốn đông chật các thi nhân. Có ai đó đã nói đại ý, lối đi hay lộ trình Thăm Lúa đã đưa Trần Hữu Thung từ ông nông dân thành nhà thơ. Và lối đi ấy dẫn ông từ Diễn Châu từ Vinh khu Tư ra Hà Nội, chưa hết ra cả thế giới nữa. Nhưng sau một hồi đua chen thành thị, bạc tóc với trường văn trận bút cùng đời sống thị thành, Trần Hữu Thung đã chọn con đường một lộ trình ngược đơn giản. Là từ Hà Nội xuôi Vinh rồi về hẳn quê Diễn Châu!

Cứ thấy tiêng tiếc, nếu như cái vốn Hán học tinh thông, Trần Hữu Thung biết chi dùng cái quỹ thời gian cho việc nghiên cứu chẳng hạn? Có thể phải mờ nhòe một cái danh thi sĩ bình bình nào đó nhưng biết đâu xứ Nghệ nói riêng và giới nghiên cứu có một cây viết tầm cỡ học giả mang tên Trần Hữu Thung?

Trở lại bài thơ như một khúc họa thơ Nguyễn Trọng Oánh. Có thể nói đây là một bài thơ hay. Một bài thơ họa chuẩn chỉnh về sự đăng đối ngữ lẫn nghĩa. Toàn bộ bài họa như toát lên âm hưởng chủ đạo của tinh thần lạc quan cách mạng khác với chất bi của Nguyễn Trọng Oánh. Trần Hữu Thung hào phóng phát lộ cái chất hùng từ đầu chí cuối. Vẫn có mộng vẫn có bến mê (mê tân) đấy nhưng là văn phong dào dạt cõi tỉnh. Nếu có bến mê thì hùng khí cuồn cuộn sẽ tẩy rửa cuốn phăng hết!

Hai câu cuối như một bức tượng đài hoành tráng là hình tượng người chiến sĩ giải phóng với áo đen mũ tai bèo hiện lên sừng sững trên làn mây trắng  Trường Sơn! Khác với vẻ ngậm ngùi bi lụy hình ảnh người chiến sĩ vọng ngóng về dãy Trường Sơn chỉ có làn mây trắng ngổn ngang trong thơ Nguyễn Trọng Oánh!

Tôi đương bồi hồi nghĩ đến cái đoạn những năm ở đất Hà Thành, hai ông Đồ xứ Nghệ nhà thơ nhà văn, một quê ở Nghi Lộc, một ở Diễn Châu, Nguyễn Trọng Oánh sinh năm 1929 kém Trần Hữu Thung 6 tuổi (nhưng tuổi tác nào có hề gì?) đã từng đi lại và thâm giao những gì?

Và cũng cố tưởng tượng ra cái nhăn trán của Trần Hữu Thung (nếu có?) khi thẩm thơ ông bạn Nguyễn Trọng Oánh rằng “mần chi mà phải bi lụy phải dẫn ra cái điển mộng kê vàng cùng bến mê này khác?”. Hình như cùng với cấu tứ, ngữ nghĩa trong bài họa, Trần Hữu Thung đã hóa giải phần nào những giăng mắc bi lụy mà Nguyễn Trọng Oánh từng u ẩn?

Hai bài thơ của Nguyễn Trọng Oánh (phải) và Trần Hữu Thung (trái). Thủ bút của Xuân Ba.

Lời kết

Thưởng lãm hai bài thơ chữ Hán trên, một chút bồi hồi lẫn bâng khuâng.

Rằng chưa xa lắm, xứ mình có những nhà văn nhà thơ hơi bị túc nho như Nguyễn Trọng Oánh, Trần Hữu Thung. Lại sành thạo thứ xướng họa này khác. Cứ như họ là thứ hậu duệ, sự tử tế cuối cùng sót lại từ thế kỷ trước vậy!

Tất nhiên thời nay chả thiếu những nhà viết trẻ thông rành ngoại ngữ nhất là tiếng Tây (Anh, Pháp, Tây Ban Nha…) nhưng thấy bặt đi cái thú chơi tao nhã xướng họa, cứ thấy thiêu thiếu thế nào?

Cũng có lần hỏi thêm người nhà của hai nhà văn Nguyễn Trọng Oánh và Trần Hữu Thung thì nghe nói lật tìm trong di cảo đều không tìm thấy bút tích hai bài thơ chữ Hán kia (hoặc có thể đang thất tán đâu đây?).

Tôi đành mạo muội làm cái việc thủ bút chép lại như nén hương muộn tưởng nhớ hai ông vậy!

Có gì sai quấy mong các bậc cao minh chỉ giáo.

Xuân Ba
Tin khác
Mạch nha Thi Phổ
Mạch nha Thi Phổ

Làng Thi Phổ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi sản xuất loại mạch nha thơm ngon nổi tiếng trong cả nước, gọi là 'mạch nha Thi Phổ'.

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh không chỉ được chuyển thể thành phim truyền hình và phim điện ảnh, mà còn liên tục tái bản với số lượng lớn để phục vụ độc giả.

Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư
Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư

Trong 'Quốc văn trích diễm', giáo sư Dương Quảng Hàm trích bài thơ 'Bán than' và cho là của Trần Khánh Dư. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả là người khác.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tác giả được giải thưởng Hồ Chí Minh, được hậu sinh kỷ niệm 10 năm ông đi xa, bằng một hội thảo tổ chức tại TP.HCM sáng 6/12.

Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm
Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm

Trên bia đá đền thờ tổ nghề chạm bạc Đồng Xâm có tuổi đời gần 600 năm ghi dấu ấn tinh hoa làng nghề và những điều răn dạy con cháu giữ nghiêm phép nghề.

'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc
'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc

Nội dung của 'Hưng Hóa kí lược' có 12 đề mục, bao gồm đầy đủ nội dung truyền thống của một cuốn địa chí.

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’
Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn với chùm thơ về vẻ đẹp đô thị năng động và bao dung, đã được trao giải nhất cuộc thi thơ ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’ năm 2024.

Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh
Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh

Nhà thơ xứ Nghệ Trần Quang Khánh chắt chiu cảm xúc những ngày quân ngũ và những năm dạy học để gửi gắm vào vần điệu chân thành và sâu lắng.

Vẻ đẹp núi rừng qua trang văn của tác giả dân tộc Thái
Vẻ đẹp núi rừng qua trang văn của tác giả dân tộc Thái

Vẻ đẹp núi rừng ở miền tây xứ Nghệ được tác giả Hữu Vi phác họa sinh động và quyến rũ qua tập truyện ngắn ‘Cái chết của bầy ong’.

Nhà văn Sơn Nam đã có thêm một khách tri âm
Nhà văn Sơn Nam đã có thêm một khách tri âm

Nhà văn Sơn Nam đã được nhiều tác giả tập trung nghiên cứu, và chuyên luận ‘Khí chất Nam Bộ qua truyện Sơn Nam’ chứng minh rằng ông có thêm một khách tri âm nữa.

Học giả Nguyễn Đình Tư lần thứ hai nhận Giải thưởng sách quốc gia
Học giả Nguyễn Đình Tư lần thứ hai nhận Giải thưởng sách quốc gia

Học giả Nguyễn Đình Tư ở tuổi 104 được trao giải A của Giải thưởng sách quốc gia 2024 với công trình nghiên cứu về lịch sử đô thị phương Nam.

Đào tạo tiếng Việt được quan tâm trên đất nước Triệu Voi
Đào tạo tiếng Việt được quan tâm trên đất nước Triệu Voi

Đào tạo tiếng Việt tại Lào có thêm một địa chỉ mới ở Viên Chăn, với sự phối hợp giữa Trường Đại học Cửu Long và Viện Nghiên cứu khoa học giáo dục Lào.