“Nam Việt thần kỳ hội lục” là sách Nhà nước đặt hàng do NXB Đại học Sư phạm Hà Nội in, phát hành và nộp lưu chiểu quý IV/2021. Biên dịch và khảo chú: Trần Trọng Dương - Dương Văn Hoàn. Nghiên cứu - giới thiệu: Trần Trọng Dương. Cả hai người đang công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam).
Khảo chú ẩu
Để dịch và khảo chú “Nam Việt thần kỳ hội lục” đòi hỏi người nghiên cứu công phu, nghiêm túc. PGS.TS Trần Trọng Dương và Th.S Dương Văn Hoàn đã gia công nhiều khi dịch nhưng đáng tiếc còn nhiều chỗ khảo chú ẩu, võ đoán, suy diễn bừa bãi…
Dẫn chứng đầu tiên, trang 12, chú thích số 6 viết: “Chữ húy bà Hồ Thị Hoa (1790 - 1806) - mẹ vua Thiệu Trị”. Viết như thế này là bức tử bà Hồ Thị Hoa sớm 1 năm. Bà mất vào ngày 29/6/1807. Vua Thiệu Trị sinh ngày 16/6/1807, được 13 ngày sau thì mẹ qua đời. Nếu bà Hồ Thị Hoa mất từ năm 1806 như khảo chú của PGS.TS Trần Trọng Dương viết thì phải là người khác đẻ ra vua Thiệu Trị chứ không phải Tá Thiên Nhân hoàng hậu Hồ Thị Hoa.
Dẫn chứng thứ hai, trang 188, mục số 237, Minh Hiển thái tử đại vương Trần Quốc Bảo. Chú thích số 741 ghi: “Trần Quốc Bảo: Cháu nội vua Trần Nhân Tông, hi sinh trong trận chiến Bạch Đằng với quân Mông Nguyên. Khi mất được truy phong làm Thái tử” (tr. 188).
Sử liệu quan phương đều viết rõ, vua Trần Nhân Tông sinh năm 1258. Trận Bạch Đằng diễn ra năm 1288. Năm đó, vua Trần Nhân Tông vừa tròn 30 tuổi, con đích trưởng tử của nhà vua là Trần Thuyên 12 tuổi (sau này lên nối ngôi là Trần Anh Tông). Vậy làm sao vua Trần Nhân Tông có cháu nội tuổi 18 - 20 tức là gần bằng tuổi nhà vua đi đánh giặc Mông Nguyên trên sông Bạch Đằng được?
Võ đoán, suy diễn bừa bãi
Đọc phần nghiên cứu - giới thiệu sách, tôi không rõ phương pháp khảo sát “hoa tiêu” những người khảo chú thực hiện trong quá trình chú thích nhân danh, địa danh cho toàn bộ tác phẩm “Nam Việt thần kỳ hội lục” được nêu trong chú thích số 12 (tr. 14) là như thế nào? Phải chăng là ngồi bàn giấy, tra Google, rồi cứ thế quy đổi ra nhân danh, địa danh? Điều này được thể hiện rõ thêm tại trang 307, chú thích số 1279 về xã Nghiêm Xá là nơi thờ Minh Thành Thiện Khánh đại vương. Chú thích ghi: “Xã này có ông Bùi Văn Bưu đỗ Tiến sĩ năm 1602 đời vua Lê Kính Tông, giữ chức Tham chính (…) Có thể làng thờ ông làm Phúc thần, cần điền dã để kiểm chứng”.
Như vậy, có thể hiểu rằng, có nhiều địa danh, người dịch và khảo chú chưa tới tận nơi. Có lẽ vì chưa đến nơi nên nhiều địa danh được 2 ông Dương - Hoàn chú trên giấy một trời mà thực tế lại một vực. Xin nêu vài dẫn chứng:
Trang 95, địa danh Khả Do trong chú thích 330: “Nay là thôn Khả Do xã Nam Viêm thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc”. Thực tế, Phúc Yên trở thành thành phố - đô thị loại III từ tháng 10.2018 và Nam Viêm trở thành phường cùng năm, Khả Do là tổ dân phố, chứ không còn thôn, xã nữa.
Vẫn ở trang 95, chú thích số 332 về địa danh xã Xuân Nộn, nơi thờ Khước Địch đại Vương (Trương Hống) và Uy Địch đại vương (Trương Hát), PGS.TS Trần Trọng Dương cho rằng: “Nguyên văn có lẽ chép nhầm là “Xuân Mai”, nay đính chính; nay là thôn Xuân Nộn xã Xuân Nộn huyện Đông Anh TP. Hà Nội”. Do chưa đến phường Phúc Thắng, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc nên ông Dương không biết ở đây có đình Xuân Mai thờ Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát làm Thành hoàng. Ông đã vội cho “nguyên văn có lẽ chép nhầm”. Thực tế, người xưa không nhầm, chỉ có PGS.TS Trần Trọng Dương… khảo cứu lộn!
Trang 270, chú thích số 1147: “Xã Thanh Tước: Nay là thôn Thanh Tước xã Thanh Lâm huyện Mê Linh TP. Hà Nội”. Địa danh “thôn Thanh Tước” là do những người biên dịch - khảo chú nghĩ ra, hoặc nhờ Giáo sư Google chỉ dẫn. Thực tế, trên bản đồ địa giới hành chính và quản lý dân cư của xã Thanh Lâm, huyện Mê Linh không có địa danh “thôn Thanh Tước” mà chỉ có… nghĩa trang Thanh Tước!
Ngoài ra, do chưa đến thực tế nên nhiều địa danh trong sách phải viết 2 cách: Đồng Xâm [Sâm] – xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Tuân Lệ/ Tuân Lễ (Tuân Lề) - xã Tiên Dương, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội…
Việc chú giải nhân danh, địa danh là quan trọng và cực kỳ mất công. Điều này là một thách thức vô cùng lớn, gây hao tổn tâm trí, thời gian đối với các nhà nghiên cứu. Trong sách “Nam Việt thần kỳ hội lục” có hàng nghìn địa danh, nếu người khảo chú đi được hết thì quả là điều lý tưởng. Song dù không đi được đến tận nơi, khi dịch chú sách Hán Nôm, thao tác của người nghiên cứu phải thu thập các diên cách địa lý của từng thời kỳ quy định trong văn bản chính thống của Nhà nước. Có như vậy, mới không xảy ra tình trạng võ đoán, suy diễn bừa bãi khi chú thích về địa lý.
Người xưa vẫn dạy, cái gì biết thì nói là biết, cái gì không biết thì nói là không biết, ấy là biết vậy (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã). Không nên tùy tiện bày rác để người khác đi dọn. Khảo cứu còn cần một cái đầu có tư duy khoa học biết tổng hợp, phân tích, xử lý tư liệu sao cho rành rõ, bóc tách được các lớp niên đại, thông tin tư liệu, đâu là chính sử, đâu là huyền sử, đâu là tín ngưỡng dân gian… Như vậy mới tránh được điều người xưa đã cảnh tỉnh: “Tận tín thư bất như vô thư” (Đọc sách mà tin vào sách thì cũng bằng không đọc sách).
Trang 111, viết về Tá phụ Minh quân đại vương - Tiến sĩ Đỗ Nhuận (1446 - ?). Chú thích số 435 viết: Năm 1495, Đỗ Nhuận vâng mệnh vua Lê Thánh Tông hoạ các vần trong tập “Quỳnh uyển tửu ca”. Theo tôi được biết, chỉ có tập “Quỳnh uyển cửu ca” nghĩa là 9 khúc ca vườn quỳnh, chứ không có tập “Quỳnh uyển tửu ca” dù vua Lê Thánh Tông và các văn thần trong nhóm Tao Đàn nhị thập bát tú có mượn rượu làm thơ!