Dù người khó tính đến đâu cũng phải thừa nhận rằng, Nghị quyết 26 NQ - TƯ, ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” (thường gọi tắt là “tam nông”) đã đi vào cuộc sống và đạt được những thành tựu lớn về an ninh lương thực, sự tăng trưởng ngoạn mục về xuất khẩu nông sản; Mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo về đích trước thời gian; thu nhập và đời sống của đại bộ phận nông dân được nâng lên rõ rệt; nông thôn mới đã trở thành hiện thực.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tế ở nông thôn, thì vai trò “chủ thể” của người nông dân còn mờ nhạt. Có hai vấn đề đáng lưu tâm: Một là, gần 18 triệu người sinh ra tại thời điểm thực hiện Nghị định 64 - CP ngày 27/9/1993 đến nay, họ không được giao đất nông nghiệp để sản xuất, trong khi, vẫn có nghĩa vụ, trách nhiệm với những khoản đóng góp theo quy định của pháp luật và chính quyền địa phương.
Hai là, số lao động trẻ nông thôn làm việc tại các khu vực có vốn đầu tư ngoài nước (FDI) khi thay đổi công nghệ, do tuổi cao sức yếu hoặc thao tác chậm - họ bị mất việc. Tiếp đó là hai năm dịch Covid đã làm giãn việc, mất việc, một lượng người lao động không nhỏ đã quay về nông thôn tìm kế mưu sinh. Người không có đất nông nghiệp để sản xuất, người mất việc từ khu công nghiệp trở về nông thôn tìm kiếm việc làm - người ta gọi những người/hộ đó là “tứ nông”.
Mặc dù đã được cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội, người thân và cộng đồng cư dân hỗ trợ, cưu mang và đùm bọc…, nhưng các hộ gia đình thuộc lớp “tứ nông” vẫn rơi vào hoàn cảnh bất lợi: thiếu đất, thiếu vốn, thiếu việc làm và suy giảm thu nhập; phần nhiều trong số lao động đó phải đi làm thuê, mức sống và tiêu dùng thấp, sự mưu sinh bấp bênh và phụ thuộc.
Cái vòng luẩn quẩn thiếu vốn thì không có đầu tư; đầu tư thấp thì năng suất, chất lượng sản phẩm thấp; năng suất, chất lượng sản phẩm thấp thì thu nhập thấp… Cái vòng luẩn quẩn ấy đã tạo ra sự cách biệt về kinh tế và dẫn đến cách biệt về xã hội, thậm chí trở thành gánh nặng an sinh trong xã hội.
Vậy, có “tứ nông” không? Nếu có thì “tứ nông” như thế nào trong tháp phân tầng xã hội? Những người/nông nghiệp hộ gia đình không có đất sản xuất - sinh kế sẽ ra sao? Họ đứng trong hay đứng bên lề sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn?
Đặt vấn đề như vậy, cũng có nghĩa là, quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập kinh tế toàn cầu ở nước ta đã nảy sinh những vấn đề mới, phức tạp và chưa có tiền lệ. Những vấn đề đó, cần phải được gọi đúng tên, đặt đúng chỗ và có giải pháp đủ mạnh để giải quyết những vướng mắc trong tư tưởng và thực tiễn đang đặt ra.
Thực chất, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu về phân tầng xã hội ở nông thôn nước ta trong thời gian qua mới chỉ là nghiên cứu về sự phân hoá giàu nghèo, khoảng cách giữa các nhóm theo chỉ báo kinh tế, thu nhập, mức sống. Các cuộc điều tra định lượng, dựa trên các chỉ báo này đã được tiến hành để mô tả và xác định thực trạng và đặc trưng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Tuy nhiên, để tiếp cận và phân tích có cơ sở khoa học vững chắc về sự phân tầng xã hội theo đúng nghĩa cần dựa trên nhiều thông tin và chỉ báo khác, cũng như cần có thêm những cách tiếp cận thích hợp hơn để có cơ chế, chính sách phù hợp với người nghèo. Và xa hơn là có cái nhìn tổng thể về xu hướng biến đổi bất bình đẳng xã hội.
Mặt khác, cũng cần có các hướng tiếp cận mới, để tìm hiểu sâu hơn động thái của các nhóm, tầng xã hội đáng chú ý ở nông thôn. Ví như: giai tầng, nhóm xã hội nào đang là động lực của sự phát triển, đang có triển vọng trở thành một lực lượng doanh nhân nông nghiệp? Đã hình thành một tầng lớp nông dân trung lưu, giàu có của xã hội Việt Nam chưa? Nếu có, thì xu thế vận động, phát triển và đóng góp cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tương lai sẽ thế nào? Đồng thời cần phân tích một số nhóm, giai tầng xã hội mới, bao gồm những người/ hộ gia đình không có đất, thiếu đất sản xuất, thiếu điều kiện, cơ hội tiếp cận vốn, thông tin, thị trường...
Đặc biệt, cần chỉ ra xu hướng biến đổi các nhóm này dưới tác động của các nhân tố mới trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và những vấn đề về phúc lợi, an sinh xã hội ở nông thôn đối với người nghèo, hộ nghèo - Đó là hướng nghiên cứu kinh tế - chính trị về cấu trúc, phân tầng xã hội trong phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh mà “không để ai bị bỏ lại phía sau”
Tại Trung Quốc, việc phân tích về kết cấu giai tầng xã hội hiện nay đã theo hướng tiếp cận mới, được gọi là “giai tầng luận”, thay thế cho quan điểm giai cấp cứng nhắc (trong XHCN chỉ còn 2 giai cấp là công nhân, nông dân và 1 tầng lớp trí thức XHCN). Theo quan điểm này, xã hội Trung Quốc đương đại có 10 tầng lớp xã hội được phân tầng, theo 3 tiêu chí cơ bản là: nguồn lực tổ chức (chính trị), nguồn lực kinh tế và nguồn lực văn hoá. Sự phân hoá thành người giàu - người nghèo, tầng lớp có lợi thế - tầng lớp yếu thế, đều căn cứ ở việc họ không có, hoặc có 1, 2, hay cả 3 nguồn lực với các mức độ khác nhau. Đây cũng là một cách tiếp cận mới, đáng tham khảo.