
Hội thảo đánh giá sự phổ biến và áp dụng các đổi mới sáng tạo của CGIAR trong nông nghiệp Việt Nam ngày 26/2 tại Hà Nội. Ảnh: Quỳnh Chi.
Hơn 100 đóng góp khoa học - chính sách qua hai thập kỷ
Ngày 26/2, Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-PTNT) phối hợp Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) và Ban Thường trực Đánh giá Tác động CGIAR (SPIA) tổ chức Hội thảo đánh giá sự phổ biến và áp dụng các đổi mới sáng tạo của CGIAR trong nông nghiệp Việt Nam.
Tại Hội thảo, nhóm SPIA đã bàn giao kết quả đánh giá phạm vi tiếp cận nông dân của các nghiên cứu CGIAR. Theo Báo cáo SPIA Việt Nam 2024, sáng kiến CGIAR trong lĩnh vực nông nghiệp đã đem lại sinh kế bền vững cho từ 3,7 đến 3,9 triệu nông hộ trong nước.
Theo ông Travis Lybbert - Chủ tịch SPIA, nhiệm vụ chính của SPIA là rà soát và phân tích bằng chứng về tác động của các khoản đầu tư nghiên cứu của CGIAR. Tại Việt Nam, bộ dữ liệu khoa học do các nhà nghiên cứu quốc tế thu thập cho thấy hiệu quả cao. Nhiều đề tài nghiên cứu được Bộ NN-PTNT công nhận, chuẩn hóa, đưa vào sổ tay thực hành cho cán bộ khuyến nông và nông dân.
Trực quan hóa kết quả này trên bản đồ nhiệt thể hiện số lượng báo cáo trên hệ thống của CGIAR, ông Lybbert phân tích, màu đỏ trên lãnh thổ Việt Nam cho thấy nước ta có mức độ thu thập dữ liệu cao. Với gần 200 kết quả được ghi nhận, dữ liệu này sẽ giúp các đối tác quốc tế tìm hiểu thực tiễn Việt Nam.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên mà CGIAR thực hiện phân tích dữ liệu về đầu tư giai đoạn 2020 - 2025. Kết quả khả quan cho phép SPIA mở rộng nghiên cứu tại Việt Nam và thành lập đội ngũ mới trong 5 năm tới.
“SPIA sẽ chuyển giao toàn bộ nguồn dữ liệu và bằng chứng thu thập được đến các nhà hoạch định chính sách, hỗ trợ nhà quản lý có cái nhìn toàn diện nhất và hiệu quả các khoản đầu tư quốc tế”, ông Lybbert bày tỏ.
Kết quả ban đầu đã xác định được trong 20 năm (2003 - 2023), CGIAR đã xây dựng được 79 sáng kiến và 30 đóng góp chính sách, trải dài trên 6 lĩnh vực: nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, chăn nuôi, công cụ số, bảo tồn, thú ý và y tế, cơ giới hóa và trồng trọt. Trong đó, báo cáo xác định 19 sáng kiến nông nghiệp quan trọng được nông dân Việt Nam áp dụng rộng rãi.
Nhóm nghiên cứu phối hợp với Tổng cục Thống kê và sử dụng dữ liệu từ Khảo sát mức sống dân cư để đánh giá phạm vi tiếp cận.
Hoàn thiện khung đánh giá CGIAR-SPIA thành công cụ quản lý
Phát biểu tại sự kiện, TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-PTNT) - nhấn mạnh: “Hội thảo hôm nay là sự kiện quan trọng để đánh giá kết quả các đổi mới sáng tạo mà CGIAR đã thực hiện tại Việt Nam giai đoạn qua. Từ đó, phân tích các cơ hội mới, thảo luận đề xuất các giải pháp nhân rộng quy mô áp dụng các đổi mới sáng tạo”.

Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-PTNT) Nguyễn Đỗ Anh Tuấn đánh giá cao kết quả của dữ liệu khoa học do CGIAR cung cấp. Ảnh: Quỳnh Chi.
Trong khuôn khổ Hội thảo đã diễn ra phiên tọa đàm để SPIA tiếp tục lấy ý kiến, hoàn thiện khung đánh giá cho giai đoạn tiếp theo.
Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển NNNT (IPSARD) Trần Công Thắng khẳng định, các tác động ở cấp vĩ mô có thể thấy rõ qua những sáng kiến khoa học đã được thể chế hóa. Điển hình là tầm nhìn chiến lược về nông nghiệp sinh thái; Quyết định 300 của Thủ tướng phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững; hay các chính sách khuyến khích trồng và bảo vệ rừng. Giai đoạn 2025-2030, Việt Nam sẽ triển khai nhân rộng các sáng kiến trong khuôn khổ Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBCSL. Việc chuẩn bị cho Đề án đã gần hoàn thiện với nhiều chính sách cụ thể khuyến khích thu gom rơm rạ, liên kết sản xuất, tín dụng nông nghiệp; cũng như đã chuẩn hóa quy trình canh tác lúa bền vững.
TS Thắng đề xuất: “Để theo dõi, đánh giá hiệu quả những đổi mới này, nhóm nghiên cứu cần xây dựng dữ liệu gốc theo chu kỳ 5 năm. Như vậy chúng ta sẽ nhận định được điểm yếu, điểm mạnh của những can thiệp về khoa học và chính sách”.
TS Lê Thanh Tùng - nguyên Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội ngành hàng lúa gạo (VIETRISA) góp ý, bên cạnh chính sách và quy trình canh tác, cần xem xét chu kỳ sinh trưởng của cây lúa.
Ông phân tích, việc gắn quản lý và thực hành sản xuất với vòng đời của cây lúa sẽ đảm bảo hạt gạo Việt Nam có chất lượng cao. “Hạn chế suy giảm chất lượng gạo, hạn chế thất thoát sau thu hoạch chính là cách duy trì kinh tế nông hộ”, ông Tùng nói.
Về phần mình, PGS.TS Đào Thế Anh - Phó giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp (VAAS) phản biện rằng, các đánh giá giai đoạn qua của SPIA còn khá đơn giản, chủ yếu tập trung vào các khâu cụ thể trong sản xuất nông nghiệp.
Để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, ông Đào Thế Anh đề nghị nhóm SPIA mở rộng phạm vi nghiên cứu để đánh giá toàn diện hơn về tác động chính sách. Phó Giám đốc VAAS gợi ý: “Chẳng hạn, cần xem xét chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sinh kế người dân, môi trường và nhận thức xã hội. Ngoài việc bàn giao dữ liệu đánh giá, cùng cần những trao đổi cụ thể hơn để chắc chắn rằng dữ liệu được khai thác, sử dụng đúng cách”.