Vua Hàm Nghi (1871-1944) tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch. Vua Hàm Nghi là vị hoàng đế thứ tám của triều Nguyễn. Vua Hàm Nghi từ nhỏ sống cảnh thanh bần trong dân dã với mẹ, chứ không được hưởng phú quý như hai người anh ruột ở trong cung đình.
Ngày 2/8/1884, tại điện Thái Hoà, Nguyễn Phúc Ưng Lịch 13 tuổi được hai phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phò tá lên ngôi, lấy hiệu Hàm Nghi.
Khi ngồi lên ngai vàng, vua Hàm Nghi đã chủ trương chống lại sự đô hộ của Pháp. Sau cuộc tấn công đồn Mang Cá thất bại vào tháng 7/1885, vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương tại vùng rừng núi Tân Sở (nay thuộc thôn Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị) bày tỏ tấm lòng son sắt với non sông: “Nước ta gần đây bỗng gặp nhiều việc. Trẫm tuổi trẻ nối ngôi, không lúc nào nguôi nghĩ đến tự cường tự trị”.
Tinh thần bất khuất trước ngoại xâm của vua Hàm Nghi lúc ấy được ghi nhận trong cuốn “L’Empire de l’Annam” xuất bản bằng tiếng Pháp: “Tên của ông ấy đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia. Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh”.
Đáng tiếc, phong trào Cần Vương không được như ý nguyện của vua Hàm Nghi. Ngày 25/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp đưa xuống tàu ở Lăng Cô để bắt lưu đày. Ngày 13/1/1889, vua Hàm Nghi đến thủ đô Alger của Algérie, và mãi mãi không được trở lại cố hương.
Vua Hàm Nghi từ 18 tuổi đã mất vương quyền, xa cương thổ. Để nguôi ngoai nỗi buồn và nỗi nhớ, ông tìm đến với hội họa và điêu khắc. Trong một lá thư gửi cho người bạn Georges Lahaye, vua Hàm Nghi viết: “Tôi phải nói với bạn rằng, không phải người họa sĩ là kẻ thù của các bức ảnh. Tôi và chính là tôi, người bỏ qua hầu hết mọi thứ, chỉ sở hữu chuyên môn là ngưỡng mộ và yêu vẻ đẹp của thiên nhiên. Tôi có thể nói với bạn rằng, không có gì đẹp hơn đường nét, bố cục. Nhưng để biết thưởng thức loại vẻ đẹp này cần phải sống để biết cảm thụ đầy đủ nghệ thuật vẽ”.
Tác phẩm của vua Hàm Nghi đã từng được triển lãm và có mặt trong nhiều bộ sưu tập tư nhân. 19 bức tranh phong cảnh vẽ bằng chất liệu sơn dầu vừa được nhà đấu giá Lynda Trouvé đưa ra giao dịch phiên đấu giá “Indochine - Chapitre 16” (Đông Dương - Chương 16) thuộc sở hữu của Henri Aubé, một lính Pháp từng đóng quân ở Hà Nội từ năm 1907 đến năm 1909.
Kết quả đấu giá, 19 bức tranh của vua Hàm Nghi được chốt mua với tổng số tiền 330 ngàn euro (tương đương 8,5 tỷ đồng). Hầu hết những bức tranh của vua Hàm Nghi đều ký tên Tử Xuân bằng chữ Hán. Vài bức tranh đã xuất hiện tình trạng hư hỏng nhẹ do bảo quản không tốt, nhưng có thể xử lý phục hồi nguyên vẹn.
Vua Hàm Nghi làm đám cưới với bà Marcelle Laloe vào năm 1904. Năm 1906, vua Hàm Nghi xây dựng biệt thự Gia Long theo kiến trúc cung đình triều Nguyễn ở nơi mình bị quản thúc để làm chỗ ở cho gia đình. Vua Hàm Nghi có ba người con là công chúa Như Mai, công chúa Như Lý và hoàng tử Minh Đức. Con gái của công chúa Như Lý là Amandine Debat có học vị tiến sĩ chuyên ngành lịch sử nghệ thuật và khảo cổ.
Chính tiến sĩ Amandine Debat đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông ngoại mình để công chúng hiểu thêm sự nghiệp một vị hoàng đế Việt Nam. Tiến sĩ Amandine Debat đánh giá: “Tranh Hàm Nghi cấu trúc chặt chẽ, màu sắc chọn lọc, nội dung đi tìm cái đẹp của thiên nhiên, nhưng kín đáo, trầm buồn, u uẩn bởi nghệ thuật là phương tiện để thể hiện lòng hoài nhớ quê hương. Ông sáng tác nhiều tranh sơn dầu, phấn màu, điêu khắc đồng, thạch cao.
Nếu như phần lớn chủ đề tranh là phong cảnh, thì trong điêu khắc, nhà vua thể hiện những khuôn mặt phụ nữ hay con người qua những bức tượng bán thân. Ông luôn luôn như một nghệ sĩ phương Tây và một nghệ nhân Việt Nam. Trong bối cảnh lưu đày, làm nghệ thuật đã tạo cơ hội cho vua Hàm Nghi lưu lại mối liên hệ với Đông Dương, và nghệ thuật là không gian tự do, qua đó ngài có thể thoải mái thể hiện sự gắn bó với quê hương mình”.
Bên cạnh tài năng sáng tác nghệ thuật, cuộc sống tha phương của vua Hàm Nghi cũng là đề tài được nhiều sử gia trên thế giới chú ý. Năm 2008, những nhà làm phim “Đi tìm dấu tích 3 vua” (Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân) đã phát hiện một bài thơ của nữ sĩ Pháp Judith Gautier viết về Hàm Nghi năm 1914 và chuyển ngữ sang lục bát: “Nước tan, nát cả giống nòi/ Bình minh vấy máu, cuộc đời tang thương/ Rồng quằn quại giữa chiến trường/ Chàng tuổi trẻ đấng quân vương sáng ngời/ Lớn trong đau đớn nỗi người/ Mở ra cả một chân trời vô biên”.
Bây giờ, thư tịch Hán – Nôm tại Việt Nam còn lưu giữ được hai bài thơ của vua Hàm Nghi sáng tác trong giai đoạn Cần Vương. Bài thứ nhất: “Ôi việc trên đời nghĩ cũng hay/ Sơn hà xã tắc nắm trong tay/ Hai hàng mũ áo mong mong trước/ Bốn phía cày bừa nhớ nhớ nay/ Tôn tổ vun trồng đà có tớ/ Đất trời ngang dọc ngẫm từ đây/ Xoay vần con tạo xem chăng tá/ Quét sạch tanh hôi có mặt này”. Bài thứ hai: “Nhủ bảo quân dân cập lại quan/ Thứ cho tội trẫm đã muôn vàn/ Ngôi cao kịp tới liền lo nghĩ/ Tuổi trẻ nhưng nay luôn thở than/ Vạch đất ra tay tề xã tắc/ Xin trời mở mặt với giang san/ Bốn phương đâu để theo dòng cũ/ Trung nịnh rồi ra sẽ liệu bàn”.
Về hậu duệ của vua Hàm Nghi, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ thêm: “Vua Hàm Nghi còn có một người tình vốn là gia sư cho các con của ông. Người tình này đã có với vua Hàm Nghi một người con trai, và hiện nay vua Hàm Nghi còn một người cháu nội gái làm bác sĩ ở Paris. Tài liệu của Pháp cũng cho biết, trong thời gian sống ở vùng núi Quảng Bình, vua Hàm Nghi đã có một người con trai với một cô gái ở Thanh Lạng”.