| Hotline: 0983.970.780

An Giang cán đích trên 4 triệu tấn lúa

Thứ Sáu 06/02/2015 , 09:16 (GMT+7)

An Giang là tỉnh đầu nguồn ĐBSCL với nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm, cung cấp đầy đủ cho SX nông nghiệp nói chung và cây lúa nói riêng.

Cây lúa cùng nông dân An Giang trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng họ vẫn xem đây là cây chủ lực, bảo toàn an ninh lương thực.

Trong nhiều năm qua, tỉnh An Giang đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm cải tạo hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng hoàn chỉnh, từ đó đưa diện tích trồng lúa ở 3 vụ chính từ 581.292 ha vào năm 2010 lên đến 625.917 ha vào năm 2014.

Năng suất trung bình 3 vụ từ 5,98 tấn/ha lên 6,453 tấn/ha, sản lượng năm 2014 ước đạt 4,039 triệu tấn, tăng 17,8 ngàn tấn so năm 2013 góp phần ổn định an ninh lương thực và phục vụ nhu cầu XK.

Đạt được kết quả như trên, nhờ tỉnh đã chủ động thực hiện đồng bộ các giải pháp sản xuất, triển khai nhanh các chương trình ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào đồng ruộng như xuống giống đồng loạt tập trung và né rầy với diện tích 279.574/618.765 ha diện tích xuống giống, đạt tỷ lệ 45,18%.

Kết quả đã kiểm soát được rầy nâu không có điều kiện phát sinh gây hại. Áp dụng biện pháp "3 giảm 3 tăng" đạt 93,8% diện tích; 1 phải 5 giảm đạt 38,5% diện tích.

Thời gian tới, tỉnh khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng vùng nguyên liệu, từng bước xây dựng và phát triển SX lúa theo hướng chất lượng cao theo tiêu chuẩn (GAP, hữu cơ). Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng tiếp thu và hoàn thiện các công nghệ, quy trình canh tác tiên tiến theo hướng an toàn, hữu cơ và GAP...

Song song đó, Chương trình công nghệ sinh thái “trồng hoa trên bờ ruộng” ngày càng được nhân rộng, góp phần tạo ra sản phẩm lúa gạo hàng hoá có chất lượng, bảo vệ môi trường sinh thái... Về cơ cấu giống lúa tiếp tục được chuyển đổi theo hướng tích cực, các giống lúa năng suất, chất lượng cao được sử dụng ngày càng nhiều.

Chi cục BVTV An Giang cho biết, để đạt được mục tiêu tăng trưởng sản lượng lúa trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế của từng ngành hàng, xác định rõ từng cây trồng chủ lực và gắn với thị trường tiêu thụ ổn định; quyết liệt chỉ đạo thực hiện xuống giống theo đúng lịch thời vụ; đẩy mạnh cơ giới hóa, quy hoạch vùng trồng tập trung theo giống chủ lực gắn với hợp đồng tiêu thụ ổn định.

Đây là cơ sở cho việc xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho thị trường và nâng cao chất lượng, đồng nhất sản phẩm...

Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện đẩy mạnh xã hội hóa công tác giống theo hướng tập trung xây dựng bộ giống chủ lực có chất lượng cao. Chủ yếu phục tráng và ổn định chất lượng giống mà thị trường cần, không chạy theo hướng đa dạng nhiều giống.

Đồng thời, áp dụng đồng bộ các giải pháp, tiến bộ kỹ thuật như 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, công nghệ sinh thái, nấm xanh, san phẳng mặt ruộng bằng lazer, phân sinh học… quy mô cộng đồng để giảm chi phí và tăng hiệu quả SX cho nông dân theo hướng bền vững.

Xây dựng các tổ, đội, HTX cung ứng dịch vụ nông nghiệp để từng bước hỗ trợ nông dân ký kết hợp đồng với doanh nghiệp cung ứng đầu vào đúng chất lượng, giá cả và tiêu thụ sản phẩm ổn định.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm