| Hotline: 0983.970.780

Bón NPK-S*M1 Lâm Thao cho cây chè

Thứ Tư 07/09/2016 , 09:17 (GMT+7)

Cây chè có tên khoa học là Thea sinensis Seem thuộc họ Chè (Theaceae). Diện tích trồng chè ở Việt Nam khoảng 126 - 133 ngàn héc ta và thu hút khoảng 2 triệu lao động. 

Việt Nam là nước SX và xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới. Năm 2015 kế hoạch SX đạt 1,2 triệu tấn chè thô, xuất khẩu 200.000 tấn chè chế biến, trong đó  chè đen chiếm gần 80% tổng  lượng chè xuất khẩu.

Giá chè xuất khẩu của Việt Nam  còn ở mức thấp nhất thế giới do chất lượng chè chưa đáp ứng được khách hàng. Các nước Pakistan, Đài Loan, Nga, Trung Quốc và Indonesia là những khách hàng lớn nhất của Việt Nam trong những năm qua.

Cây chè ưa nóng ẩm. Yêu cầu nhiệt độ của các giống chè rất khác nhau:  Chè Shan thích hợp nhất  15 - 20oC (thấp nhất -5oC, cao nhất 32oC);  các giống chè trung du thích hợp 20 - 25oC (thấp nhất  0oC, cao nhất 35oC). Khi từ 10 - 12oC  cây chè ngừng sinh trưởng. Độ ẩm không khí phải đảm bảo 85 - 90% thì cây chè mới sinh trưởng tốt, khi độ ẩm dưới 70% thì năng suất chè có bị ảnh hưởng.

 

Đất trồng chè

Cây chè được trồng trên nhiều loại đất như đất bazan, phù sa cổ trên phiến thạch và sa thạch. Đất trồng chè phải có độ dày tầng canh tác ít nhất là 60 cm, giữ ẩm và thoát nước tốt, có phản ứng chua (pH  5,0 - 5,5 là thích hợp nhất).  Khi  pH  >6 hoặc  pH <4  cây chè phát triển kém, pH cao thì sự sinh trưởng của cây rất kém, lá cây bị héo và rễ cây bị sùi, pH  >7 cây chè có thể bị chết.

Việc bón vôi cải tạo đất chua hoặc sử dụng phân bón cho cây chè cần chú ý duy trì pH trong khoảng  4,5 - 5,5. Khi pH cao cần sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh, khi đất quá chua (pH <4) có thể sử dụng vôi vào thời gian đốn với lượng 2 - 3 tấn/ha.  Không nên trồng chè trên những vùng đất có pH  > 5,5.

Quan sát sự sinh trưởng của cây chè và sự có mặt của các cây chỉ thị  để dự đoán  là đất có pH thích hợp hay không. Khi  cây chè sinh trưởng khoẻ mạnh và ở xung quanh vườn chè có các cây họ sim, mua thì đó là đất có độ pH thích hợp.

Đất trồng chè cần được duy trì hàm lượng hữu cơ tổng số >2,0%. Bổ sung chất hữu cơ cho đất trồng chè bằng cách giữ lại cành lá chè đốn hàng năm, tủ gốc cho chè bằng thân lá thực vật không bị nhiễm bẩn, lá rụng, cành tỉa của các loại cây che bóng, của cây trồng xen thời kỳ chè kiến thiết cơ bản, hoặc bằng cách bón phân chuồng  ủ hoai, phân hữu cơ vi sinh, phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ - khoáng...

 

Dinh dưỡng của cây chè

Trung bình năng suất 1 tấn chè búp khô lấy đi  40kg N, 11,5kg P2O5, 24kg K2O, 4kg MgO, 8 kg CaO, 1kg Al; 0,06kg Cl;  0,08kg Na.

Lượng hút dinh dưỡng của chè cần tính đến cả lượng dinh dưỡng cho việc hình thành bộ lá trên bụi chè, cho số lá rụng, cho việc hình thành thân cành và rễ, bị mất theo cành và thân do đốn định kỳ.

Theo đó, để hình thành nên 1 tấn chè thương phẩm cây lấy đi tổng số dinh dưỡng cho tất cả các bộ phân nêu trên là: 144 - 169kg N;  56,8 - 71kg P2O5;  62 - 88kg K2O;  24 - 29,2kg MgO;  40 - 67kg CaO; 8,71kg Al; 0,74kg Na; 0,38kg Zn; 0,26kg B; 0,38kg Cu; 2,41kg Fe và  4,79kg Mn.

Những năm mới trồng lượng đạm bón  trong khoảng  120 - 240kg N/ha và  tỷ lệ N: K2O là: 1: 0,5;  thời kỳ thu hoạch, tỷ lệ  N: K2O là: 1: 1 với lượng bón  240 - 300kg N và 240 - 300kg K2O.

Những nương chè cho năng suất cao đã bón tới 350kg N và 350kg K2O. Các kết quả nghiên cứu về phân bón vô cơ cho thấy tỷ lệ N: P2O5 : K2O  phù hợp là 1,0: 0,3-0,5: 0,5-1,0  tùy theo điều kiện đất trồng ở từng vùng và tùy theo tuổi của nương chè.

Trong thành phần của phân bón Lâm Thao NPK-S*M1 ngoài đạm, lân, kali còn được bổ sung  khá đầy đủ và cân đối các nguyên tố dinh dưỡng trung, vi lượng cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng như  canxi, ma giê, lưu huỳnh, kẽm, đồng, sắt, molipđen, bo... Do đó sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S*M1 sẽ tăng năng suất và chất lượng chè.

 

Giống và mật độ trồng

Trên mỗi vùng trồng chè nên sử dụng các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu tốt với cơ cấu 50%, giống địa phương 50%. Sử dụng các giống LDP1, LDP2, PH1, Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên, PT95 trồng cho vùng thấp;  các giống Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Ô long Thanh Tâm, Kim Tuyên trồng cho vùng cao. Sử dụng giống TRI 777  trồng ở vùng chè Thái Nguyên để chế biến chè xanh chất lượng cao.

Các giống chè thân gỗ (chè Shan, PH1…) trồng với mật độ  15 - 18 ngàn cây/ha, trồng hàng đơn; các giống chè thân bụi hoặc nửa bụi (Ô long, Kim Tuyên, LDP1…) trồng mật độ từ 18 - 28  ngàn  cây/ha, có thể trồng hàng kép.  

Phân bón NPK-S Lâm Thao cho cây chè (tính cho 1 sào Bắc bộ 360m2)

Căn cứ vào năng suất búp tươi mà dùng lượng phân thích hợp, bón 3 lần/năm vào tháng 2 hoặc 3, tháng 5 hoặc 6 và tháng 8 hoặc 9.

Phân chuồng cứ  2 năm bón 1 lần với liều lượng 0,7 - 1 tấn/sào Bắc bộ (360m2) vào  tháng 11 hoặc tháng 1. Cày 2 xá trùng nhau, vét rãnh sâu 20 cm, bón phân chuồng  xuống  rãnh rồi lấp kín.

Đối với giống Phúc Vân Tiên (SX chè xanh), Shan Chất Tiền (SX chè đen) tại Phú Hộ - Phú Thọ, tỷ lệ  N:P2O5:K2O = 1:0,3:0,7 là tốt nhất, bón phân Lâm Thao  NPK-S*M1 12.5.10-14 hoặc 10.5.10-5.

Đối với giống chè LDP1 và LDP2 tại Phú Hộ, tỷ lệ  N:P2O5:K2O = 1:0,3:0,5 là tốt nhất, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14 hoặc NPK-S10.5.10-5.

Đối với giống chè LDP1 và LDP2 tại Tân Cương - Thái Nguyên, tỷ lệ N:P2O5:K2O =1:0,3:0,3 là tốt nhất để đạt năng suất 10 - 11 tấn/ha, bón phân Lâm Thao  NPK-S*M1 10.5.5-9 hoặc NPK-S 10.5.5-3

Đối với giống chè PH8 tại Phú Hộ, tỷ lệ N:P2O5:K2O =1:0,3:0,3 là tốt nhất để đạt năng suất 10 - 11 tấn/ha, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 10.5.5-3. 

Sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14, hoặc NPK-S 10.5.10-5, NPK-S 10.5.5-3,  NPK-S*M1 10.5.5-9 cho một số giống chè thời kỳ kinh doanh, (kg/sào Bắc bộ 360 m2):

TT

Thời kỳ bón

Loại giống

Bón lần 1

(Tháng 2-3)

Bón lần 2

(Tháng 5-6)

Bón lần 3

(Tháng 8-9)

1

Giống Phúc Vân Tiên (SX chè xanh), Shan Chất Tiền (SX chè đen) tại Phú Hộ - Phú Thọ, bón phân Lâm Thao  NPK-S*M1 12.5.10-14  hoặc NPK-S 10.5.10-5.

16-18

16-18

13-15

2

Giống chè LDP1 và LDP2 tại Phú Hộ - Phú Thọ, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10-5.

12-14

12-14

9-11

3

Giống chè  LDP1 và LDP2 tại Tân Cương - Thái Nguyên, bón phân Lâm Thao  NPK-S*M1 10.5.5-9 hoặc NPK-S 10.5.5-3

38-40

38-40

30-32

4

Giống chè PH8  tại Phú Hộ - Phú Thọ, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1

10.5.5-9 hoặc NPK-S 10.5.5-3

44-46

44-46

35-37

 

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm