| Hotline: 0983.970.780

Cánh đồng lớn còn lỏng lẻo

Thứ Hai 01/06/2015 , 06:15 (GMT+7)

PGS.TS Phạm Văn Dư đề xuất, để CĐL phát triển ổn định cần xây dựng các HTX, tổ hợp tác kiểu mới, đẩy mạnh chuyển giao TBKT vào đồng ruộng, làm tốt công tác giống...

Theo Cục Trồng trọt, mô hình liên kết SX cánh đồng mẫu lớn (CĐML) được Bộ NN-PTNT phát động từ năm 2011 tại Cần Thơ đã mở hướng đi mới, hình thành vùng nguyên liệu tập trung, tạo chuyển biến trong SX lúa gạo.

Khởi đầu vụ HT 2011, ĐBSCL áp dụng SX gần 8.000 ha CĐML (sau này gọi là CĐL). Vụ ĐX 2011-2012 nâng lên 20.000 ha và vụ HT 2012 đạt 26.000 ha... Đến vụ ĐX 2014-2015 đạt khoảng 200.000 ha. Năng suất đạt thấp nhất 5 tấn/ha và cao nhất 7,23 tấn/ha; lợi nhuận từ 15 - 26 triệu đ/ha, cao hơn so với ngoài mô hình từ 2,2 - 7,5 triệu đ/ha; giảm giá thành so với ngoài mô hình từ 120 - 600 đ/kg lúa và giảm số lần phun thuốc BVTV từ 1,2 - 2,6 lần/vụ.

Vụ HT 2014, có 101 DN của 13 tỉnh, thành ĐBSCL tham gia ký kết bao tiêu cho CĐML. 88 HTX và 551 tổ hợp tác đại diện cho nông dân ký kết với DN tiêu thụ lúa cho hơn 77.400 ha. Song, thực tế DN thu mua chỉ đạt 42.600 ha, chiếm 55%.

TS. Phạm Văn Dư, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt nhận xét: Một số DN cung ứng phân bón, thuốc BVTV làm tốt. Song đa số DN xuất khẩu lúa gạo cuộc còn khá chậm, trong khi CĐL là vùng nguyên liệu lúa chủ yếu để XK. Nhiều HTX chưa có nhà kho, hệ thống sấy… So với mục tiêu xây dựng vùng nguyên liệu lúa XK 1 triệu ha thì sự phát triển của CĐL vẫn chậm.

Đại diện Cục Chế biến, thương mại nông lâm sản và nghề muối cho rằng, qua việc triển khai thu mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo vừa qua cho thấy hầu hết DN chỉ mua gạo chứ không mua lúa. Mối liên kết còn lỏng lẻo nên xảy ra tình trạng nông dân “bẻ kèo”, DN kéo dài thời gian thu mua...

Theo ông Phạm Thái Bình, GĐ Cty TNHH Trung An (Cần Thơ), sở dĩ DN tham gia CĐL còn chậm là do nguồn lực chưa đủ. Muốn làm CĐL phải đầu tư lớn. Vì thế cần có sự tham gia liên kết chặt chẽ của HTX, tổ hợp tác.

PGS.TS Dương Văn Chín, GĐ Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp Định Thành (Cty CP BVTV An Giang - AGPPS) cho biết, chiến lược tổ chức SX, tiêu thụ lúa gạo của AGPPS đã có những thành công bước đầu. Tham gia CĐL, nông dân có lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, nên an tâm hợp tác liên kết.

Năm 2013, AGPPS đã hình thành vùng nguyên liệu CĐL là 72.600 ha, chiếm 1,8% diện tích gieo trồng lúa ĐBSCL (hơn 3,9 triệu ha); đồng thời xây dựng 5 nhà máy có hệ thống kho, sấy, chế biến lúa gạo. Mục tiêu đến 2018, AGPPS mở rộng CĐL lên 340.500 ha, chiếm 9% diện tích gieo trồng lúa ĐBSCL và hoàn thành cụm 12 NM chế biến.

Ông Chín trình bày, AGPPS đã có chủ trương đầu tư xây dựng các NM chế biến, quy mỗi NM từ 10-15 ha . Mặc dù đã nộp hồ sơ đầy đủ nhưng các tỉnh vẫn chưa cho phép chuyển đất lúa để xây dựng. Do chưa có quyền sử dụng đất nên AGPPS không thể thế chấp vay vốn ngân hàng để tiếp tục xây thêm NM mới.

Hiện sản lượng lúa trên CĐL của AGPPS gần 0,5 triệu tấn/năm. Tuy nhiên khi phân bổ chỉ tiêu tạm trữ, Cty chỉ nhận được 1/10 sản lượng. Chính sách thuế hiện hành chưa tạo điều kiện khuyến khích DN xây dựng thương hiệu gạo.

Theo TS Nguyễn Trí Ngọc, Tổng Thư ký Tổng hội NN-PTNT VN, nước ta có sản lượng nông sản XK đứng hàng đầu thế giới nhưng vẫn chưa có thương hiệu lớn, mà chủ yếu XK thô hoặc phải thông qua thương hiệu của nước khác. Vấn đề là ở chỗ chất lượng các mặt hàng nông sản còn quá kém, việc kiểm soát chất lượng cũng như kiểm soát VSATTP còn yếu...

PGS.TS Phạm Văn Dư đề xuất, để CĐL phát triển ổn định cần xây dựng các HTX, tổ hợp tác kiểu mới, đẩy mạnh chuyển giao TBKT vào đồng ruộng, làm tốt công tác giống...

Ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội NN-PTNT VN nhận định: Qua 4 năm triển khai CĐL cho thấy đã khắc phục được việc SX nhỏ, manh mún, trình độ canh tác của nông dân được nâng cao. Tuy nhiên số lượng DN và nông dân tham gia vào CĐL còn thấp, do khâu tuyên truyền chưa tốt, chưa có sự phối hợp hài hòa giữa các cấp ngành.

Thời gian tới, Tổng hội sẽ trình Chính phủ lựa chọn 4 sản phẩm chủ lực để thực hiện tái cơ cấu ngành NN-PTNT (gồm gạo, cá tra, tôm và vài loại trái cây). 4 sản phẩm sẽ gắn với CĐL, ứng dụng công nghệ cao và hỗ trợ thẳng cho DN.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm