| Hotline: 0983.970.780

Hiệu quả kinh tế CĐML

Thứ Sáu 07/06/2013 , 11:10 (GMT+7)

Ở vụ ĐX 2012-2013, nông dân tham gia SX trong vùng nguyên liệu CĐML của AGPPS tiết kiệm được 11,1% chi phí SX, nhưng tổng thu nhập gia tăng 10,8% và lợi nhuận gia tăng 57,6 %...

Vụ lúa ĐX 2012-2013 ở ĐBSCL trúng mùa nhưng nông dân kém vui vì giá lúa thấp. Tuy nhiên, bên cạnh bức tranh tổng thể đó vẫn có một số điểm khác biệt trong các vùng nguyên liệu cánh đồng mẫu lớn (CĐML). Một trong những điểm đó là vùng nguyên liệu lúa gạo của Cty CP BVTV An Giang (AGPPS).

Trong quá trình 20 năm phát triển, AGPPS hoạt động chủ yếu trong các ngành kinh doanh hạt giống (lúa, bắp, rau..), chế phẩm sinh học và hóa học BVTV và một vài ngành nghề khác (bao bì, du lịch...). Một mốc chuyển biến mang tính chất đột phá gần đây của Cty là từ quý III/2010, AGPPS đã hình thành một ngành mới là ngành lương thực với dịch vụ “đầu tư, thu mua và chế biến lúa gạo”.

Ở ngành này, Cty cung cấp dịch vụ trọn gói cho bà con nông dân trong vùng nguyên liệu CĐML của Cty và thu mua toàn bộ sản phẩm của bà con làm ra. Dịch vụ cung cấp bao gồm hạt giống, thuốc BVTV, phân bón ngay từ đầu vụ không tính lãi suất trong vòng 120 ngày, tập huấn cho nông dân áp dụng quy trình kỹ thuật thông qua lực lượng “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) tại cơ sở, vận chuyển lúa miễn phí từ đồng ruộng về nhà máy, sấy lúa miễn phí cho nông dân, cho lưu kho miễn phí trong vòng 1 tháng. Nông dân quyết định giá bán và thời điểm bán cho AGPPS.


Nông dân tham quan CĐML ở An Giang

Trong vụ ĐX 2012-2013 vừa qua có tổng cộng 6.580 nông dân ký kết hợp đồng với AGPPS và tổng diện tích thu hoạch đạt được là 17.760 ha. Mỗi nông dân hợp đồng đều được giao quyển sổ tay ghi chép SX lúa (STGCSXL) để lưu lại số liệu trong suốt vụ nhằm tổng kết và truy xuất được nguồn gốc của sản phẩm hạt gạo sau này.

30 nông dân trong vùng nguyên liệu của AGPPS bên trong mô hình (TMH) xung quanh nhà máy Vĩnh Bình, huyện Châu Thành (An Giang) được bốc ngẫu nhiên để lấy 30 quyển STGCSXL. Trong nghiên cứu này, 30 nông dân SX lúa theo tập quán truyền thống đại trà, cũng được giao sổ ghi chép theo dõi để làm đối chứng bên ngoài mô hình (NMH). Các số liệu của từng nông dân bên TMH và bên NMH được xử lý, tính toán và so sánh thống kê theo kiểm định “t”. Kết quả được trình bày tại bảng 1 và 2.

Về mặt kỹ thuật, 100% nông dân bên TMH sử dụng giống lúa cấp xác nhận với giá cao, nhưng lượng hạt giống ít hơn có ý nghĩa so với NMH. Tỷ lệ giảm lượng hạt giống là 13,9%. Số liệu tuyệt đối tương ứng là 155 kg và 180 kg/ha.

Tỷ lệ nông dân NMH sử dụng giống cấp xác nhận chỉ đạt 46,6%, số còn lại sử dụng lúa hàng hóa giá rẻ làm giống, dẫn đến chi phí hạt giống bên trong và bên ngoài mô hình tương tự nhau (2,21 và 2,16 triệu đồng /ha). Mặc dù lượng đạm và kali có chiều hướng thấp hơn đối chứng bên NMH, nhưng sự khác biệt này chưa đạt đến mức có ý nghĩa thống kê.

Mức lân bên TMH giảm có ý nghĩa so với bên ngoài, với tỷ lệ giảm là 16,4%. Số liệu tuyệt đối tương ứng là 69,5 và 83,1 kg P2O5/ha. Chi phí phân bón đất bên TMH là 6,20 triệu đồng/ha và bên NMH là 6,69 triệu đồng/ha. Chi phí thuốc BVTV và phân bón lá bên TMH 5,15 triệu đồng/ha giảm có ý nghĩa so với bên NMH 6,43 triệu đồng/ha. Tỷ lệ giảm đạt đến 19,9%.

Bảng 1: Vật tư đầu vào áp dụng cho vụ lúa ĐX 2012-2013 tại ĐBSCL

TT

Đề mục

Bên NMH (đối chứng )

Bên TMH ( vùng nguyên liệu )

Giá trị “t”

1

Lượng hạt giống ( kg/ha)

180,0

155,0

-3,11(*)

2

Lượng đạm ( kg N/ha )

133,7

122,8

-1,30(NS)

3

Lượng lân ( kg P2O5/ha)

83,1

69,5

-2,14(*)

4

Lượng kali ( kg K2O/ha)

70,5

64,5

-0,32(NS)

 

 

 

 

 

Ghi chú: (*) Khác biệt có ý nghĩa thống kê; NS (Non significant): Khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

Chi phí làm đất + bơm nước + chăm sóc + thu hoạch là tương đương nhau giữa bên trong và bên ngoài mô hình. Năng suất lúa khô bên TMH là 6.715 kg/ha với giá bán là 5.703 đồng/kg. Trong khi đó, 67% nông dân bên NMH bán lúa tươi tại ruộng cho thương lái ngay khi thu hoạch. Năng suất lúa tươi đạt 6.983 kg /ha và giá bán lúa tươi là 4.951 đồng/kg.

Nông dân trồng lúa theo tập quán và kỹ thuật đại trà hiện có chi phí là 23,53 triệu đồng/ha. Trong khi đó, nông dân được lực lượng “3 cùng” tập huấn, hướng dẫn đã giảm nhập lượng đầu vào dẫn đến chi phí là 20,91 triệu đồng/ha.

Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Ngược lại, tổng thu bên TMH (38,29 triệu đồng/ha) khác biệt có ý nghĩa so với bên NMH (34,57 triệu đồng/ha). Lợi nhuận tương ứng của bên TMH và bên NMH là 17,38 triệu đồng/ha và 11,03 triệu đồng/ha.

Bảng 2: Hiệu quả kinh tế vụ lúa ĐX 2012-2013 vùng ĐBSCL

TT

Đề mục

Bên NMH (đối chứng )

Bên TMH (vùng nguyên liệu)

Giá trị “t”

1

Chi phí hạt giống ( triệu đ/ha )

2,16

2,21

+0,53(NS)

2

Chi phí phân bón đất (triệu đ/ha)

6,69

6,20

-1,26(NS)

3

Chi phí nông dược, chế phẩm phun qua lá (triệu đ/ha)

6,43

5,15

-3,35(*)

4

Chi phí: làm đất+bơm nước+chăm sóc+thu hoạch (triệu đ/ha )

8,26

7,35

-1,29(NS)

5

Tổng chi phí (triệu đ/ha )

23,53

20,91

-3,26(*)

6

Năng suất (kg/ha )

6.983 ( tươi )

6.715( khô )

 

7

Giá bán (đồng/kg )

4.951( tươi )

5.703( khô)

 

8

Tổng thu (triệu đ/ha)

34,57

38,29

+3,04(*)

9

Lợi nhuận (triệu đ/ha)

11,03

17,38

+4,53(*)

Ở vụ ĐX 2012-2013, nông dân tham gia SX trong vùng nguyên liệu CĐML của AGPPS tiết kiệm được 11,1% chi phí SX (2,62 triệu đồng/ha), nhưng tổng thu nhập gia tăng 10,8% (3,72 triệu đồng/ha) và lợi nhuận gia tăng 57,6 % (6,35 triệu đồng/ha) so với SX riêng rẽ, cá thể theo tập quán truyền thống của nông dân tại địa phương có cùng điều kiện tự nhiên khí hậu, đất đai tương tự.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm