| Hotline: 0983.970.780

Hội chứng giảm đẻ ở gà

Thứ Tư 14/12/2011 , 10:34 (GMT+7)

Hội chứng giảm đẻ ở gà hay còn gọi là bệnh EDS’76 là bệnh truyền nhiễm do vi rút thuộc nhóm Adenovirus gây ra...

Hội chứng giảm đẻ ở gà hay còn gọi là bệnh EDS’76 là bệnh truyền nhiễm do vi rút thuộc nhóm Adenovirus gây ra với các biểu hiện đặc trưng như: tỷ lệ đẻ trứng giảm đáng kể có khi giảm đến 50%, trứng đẻ ra có nhạt màu, vỏ mềm, mỏng hoặc không có vỏ, hình dạng méo mó, lòng trắng bị loãng.

Bệnh xảy ra ở đàn gà đẻ công nghiệp (thương phẩm) và gà đẻ trứng giống trong giai đoạn từ 26-35 tuần tuổi (giai đoạn khai thác trứng). Gà đẻ trứng nâu thường nhạy cảm hơn. Bệnh lây truyền từ đàn bố mẹ sang đàn con thông qua trứng nhiễm bệnh (trứng bất thường) - thể hiện tính truyền dọc. Ngoài ra Hội chứng giảm đẻ còn lây lan từ đàn gà bệnh sang đàn gà khỏe thông qua thức ăn, dụng cụ chăn nuôi (máng ăn, uống...), phương tiện vận chuyển đã bị nhiễm khuẩn từ phân và các chất bài tiết khác của đàn gà bệnh (tính truyền ngang).

Bệnh thường kéo dài khoảng 6-12 tuần với các triệu chứng điển hình như:

- Tỉ lệ đẻ trứng ở đàn gà giảm đột ngột từ 20 - 40% (giảm khoảng 12-16 trứng/gà), có khi lên đến 50%;

- Trứng nhỏ, nhạt màu, vỏ lụa, mỏng và nhăn nheo, hình dạng méo mó hoặc có khi không có vỏ;

- Lòng trắng loãng;

- Tỷ lệ ấp nở giảm;

Gà bệnh vẫn ăn uống bình thường, có khi bị tiêu chảy nhất thời, mào gà có màu nhợt nhạt (từ 10-70% trường hợp). Nhìn chung sức khỏe gà không thay đổi nhiều so với trước. Nhìn chung đối với xác gà chết nghi mắc Hội chứng giảm đẻ không có bệnh tích điển hình. Tuy nhiên, khi mổ khám người ta thường thấy những biến đổi như sau:

- Buồng trứng và ống dẫn trứng bị teo nhỏ;

- Đôi khi tử cung bị viêm, phù thũng;

- Trứng non không phát triển.

Hội chứng giảm đẻ ở gà rất dễ nhầm lẫn với bệnh viêm phế quản truyền nhiễm và rối loạn hấp thu canxi. Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm phân biệt với Hội chứng giảm đẻ bằng các triệu chứng đặc trưng như: gà bệnh hay hắt hơi, thở khò khè, kém ăn, chậm lớn, lông cánh xơ xác. Chứng rối loạn hấp thu canxi ở gà được phân biệt với Hội chứng giảm đẻ bằng các bệnh tích đặc trưng như:

- Xương ống chân mềm và xốp, dễ gẫy.

- Xương ức (ngực) bị vặn vẹo.

- Xương sườn có những nốt u do sưng khớp giữa phần xương và sụn của xương sườn.

Hiện nay, đối với Hội chứng giảm đẻ ở gà người ta vẫn chưa tìm ra thuốc đặc trị. Vì vậy, phòng bệnh vẫn là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ đàn gà đẻ tránh khỏi nguy cơ mắc bệnh. Trong công tác phòng bệnh, cần nghiêm túc thực hiện các bước sau:

Bước 1: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ, và phun thuốc sát trùng NAVETKON-S hoặc BENKOCID định kỳ 2lần/tuần để tiêu diệt mầm bệnh trong và ngoài môi trường.

Bước 2: Tiêm phòng cho đàn gà đẻ khi chúng đạt 15-16 tuần tuổi. Hiện nay trên thị trường có các loại vacxin như: ND-IB-EDS K và ND-IB-EDS Emulsion để phòng 3 bệnh Niu-cát-xơn (ND), viêm phế quản truyền nhiễm (IB) và hội chứng giảm đẻ (EDS).

Bước 3: Thường xuyên bổ sung VITA-ELECTROLYTES (NAVETCO), TERRAMYCIN TRỨNG và NAVET-BIOZYM trong nước uống theo chỉ định giúp tăng sức kháng bệnh, chống stress khi môi trường thay đổi, giúp tăng khả năng hấp thu khoáng, cung cấp vitamin, kích thích buồng trứng phát triển, tăng tỷ lệ đẻ, tỷ lệ ấp nở, kéo dài chu kỳ đẻ và giai đoạn gà đẻ đỉnh cao.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm