| Hotline: 0983.970.780

Kiểm soát ô nhiễm chăn nuôi

Thứ Ba 05/07/2011 , 13:50 (GMT+7)

Đan Mạch là một trong những nước công nghiệp ở châu Âu có nghề chăn nuôi lợn phát triển mạnh. Số đầu lợn lên tới 26 triệu con, trong khi đó diện tích đất nông nghiệp chỉ bằng 1/3 diện tích đất của nước ta (2.676.000 ha) và dân số chỉ gần gấp đôi dân số của tỉnh Thanh Hoá (5,5 triệu).

Đan Mạch là nước xuất khẩu thịt lợn đứng đầu thế giới, 85% lợn sản xuất được xuất khẩu. Đan Mạch có nhiều giống lợn nổi tiếng được nhiều nước trên thế giới nhập về nuôi như Landrace, Duroc, Yorkshire… Năng suất sản xuất luôn được cải tiến, tiến bộ di truyền của 3 giống Duroc, Landrace và Large White được đánh giá trong 4 năm (từ 2004 đến 2007) cho thấy: tăng trọng bình quân của lợn nuôi thịt từ 30-100 kg tăng 5,9g/ngày, hệ số chuyển đổi thức ăn giảm 0,013 đơn vị/năm, tỷ lệ nạc tăng 0,03%/năm.

Một số số liệu về năng suất sản xuất của đàn lợn được Tổ chức Chăn nuôi Lợn Đan Mạch báo cáo như sau (theo Danish Pig Production, Annual Report 2007):

Lợn nái: Số lượng lợn con/nái/năm: 24,9 con. Số lứa đẻ/năm/nái: 2,23 lứa. Số lượng lợn cai sữa/ổ: 11,6 con. Khối lượng cai sữa: 7,3 kg.

Lợn thịt: Lợn thịt xuất chuồng cân nặng 81,5 kg. Tăng trọng bình quân: 873 g/ngày. Tỷ lệ nạc thân thịt: 60,3%. Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng: 2,87 kg thức ăn.

Chi phí để sản xuất 1 kg thịt xẻ chỉ có 9,5 krone (tương đương 1,39 USD), chi phí này thấp hơn so với Pháp, Thuỵ Điển, Irland, Đức, Áo, Anh và Ý, trong đó chi phí cho thức ăn chỉ chiếm 49,5%.

Song song với việc cải tiến di truyền và áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến về dinh dưỡng thức ăn, về vệ sinh an toàn thực phẩm, về chuồng nuôi và về quản lý, Đan Mạch rất chú ý đến việc kiểm soát ô nhiễm chăn nuôi.

Quản lý môi trường chăn nuôi của Đan Mạch tập trung vào 2 nhóm vấn đề, một là luật pháp và hai là kỹ thuật. Về luật pháp, Đan Mạch nhắm vào việc kiểm soát lượng nitơ (N) và photpho (P) thải vào môi trường đất và nước, kiểm soát lượng khí ammonia (NH3) và mùi hôi thải phát vào không khí của các cơ sở chăn nuôi.

Để kiểm soát lượng N và P của chất thải thải vào môi trường đất và nước, Đan Mạch quy định số lượng lợn nuôi phải phù hợp với diện tích đất canh tác, đó là 1,4 đơn vị lợn cho 1 hectare (1 đơn vị lợn viết tắt là 1 AU là số lượng lợn sản xuất một lượng phân chứa 100 kg nitơ, con số này tương đương 4,6 lợn nái cùng với đàn lợn con nuôi đến 7 kg hay 36 con lợn thịt từ 30-100kg).

Đan Mạch gọi diện tích đất để sử dụng hết nguồn phân thải ra là diện tích đất hài hoà (harmony area). Ngoài ra, Đan Mạch còn quy định thêm: nếu chủ trại nuôi tới 120 AU thì phải là chủ sở hữu thực sự của 25% diện tích đất hài hoà, nuôi từ 120-250 AU thì phải là chủ sở hữu thực sự của 60% đất hài hoà và nuôi trên 250 AU thì phải là chủ sở hữu thực sự của toàn bộ diện tich đất hài hoà (theo Poul Pedersen, 2003).

Ngoài ra, Đan Mạch cũng buộc chủ trang trại nuôi lợn phải có kế hoạch phân bón hàng năm, trong kế hoạch phân bón này chủ trang trại phải tận dụng nguồn phân chuồng và hạn chế dùng phân hoá học (phân đạm hoá học không được quá 10% tổng lượng nitơ yêu cầu bón cho cây trồng). Nhờ quy định này mà việc sử dụng phân đạm hóa học của Đan Mạch đã giảm đi một nửa trong vòng 20 năm (từ 400 ngàn tấn năm 1985 giảm xuống còn 200 ngàn tấn năm 2005).

Để mùi hôi của trại lợn không gây khó chịu, phiền toái cho người dân, Đan Mạch quy định khoảng cách tối thiểu giữa trại lợn với nơi ở của dân. Tùy theo quy mô đàn lợn và vùng đô thị hay nông thôn, khoảng cách này nằm trong khoảng từ 625m đến 120m.

Về kỹ thuật xử lý chất thải, Đan Mạch tập trung vào các giải pháp xử lý phân và chất thải để giảm thiểu NH3 và mùi hôi thải phát. Kỹ thuật xử lý chất thải bằng axit sulfuric đậm đặc (trộn 5 kg axit sulfuric/tấn chất thải và bơm không khí nén vào khối chất thải) để đưa pH xuống 5,5 có tác dụng giảm thải phát NH3 (giảm 70-80%) cũng như khí H2S (một loại khí gây mùi hôi như trứng thối). Kỹ thuật này đã được công nghệ hoá và đã có 24 nhà máy axit hoá chất thải đang hoạt động trong các trại chăn nuôi lợn của Đan Mạch.

Ngoài ra còn có các kỹ thuật khác như tách chất thải rắn và lỏng bằng các tác nhân gây kết tủa, bằng ly tâm chắt gạn (tách được 60-80% P và 20-30% N trong chất thải). Công nghệ biogas trong xử lý chất thải chăn nuôi cũng được Đan Mạch coi trọng. Theo công nghệ này, trước hết chất thải được thuỷ phân bằng kiềm ở nhiệt độ 160oC và pH khoảng 10, sau khi làm nguội đến 80oC thì cho lên men biogas. Điện sản xuất bằng biogas được chính phủ tài trợ, cứ 1kWh được tài trợ 0,6 krone.

Cùng với việc xử lý chất thải chăn nuôi thì Đan Mạch cũng áp dụng các biện pháp kiểm soát thức ăn để giảm thiểu lượng N và P trong chất thải. Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy hàm lượng protein trong khẩu phần lợn giảm được 2 đơn vị thì nitơ thải tiết giảm 20%. Để tăng trưởng của lợn không thay đổi khi giảm protein khẩu phần, người ta bổ sung axit amin công nghiệp để cân đối axit amin khẩu phần. Giảm hàm protein khẩu phần thì cũng giảm thiểu thải phát NH3 vào không khí, cứ giảm một đơn vị protein khẩu phần thì giảm 10% NH3 thải phát.

 Việc bổ sung muối axit như canxi benzoate, canxi sunphate... sẽ làm giảm pH nước tiểu, từ đó cũng làm giảm NH3 thải phát. pH nước tiểu giảm được 1,6-1,8 đơn vị thì giảm được 26-53% NH3 thải phát. Giảm thải phát NH3 không chỉ giảm nguy cơ gây bệnh đường hô hấp của gia súc, gia cầm trong chuồng nuôi mà còn giảm nguy cơ gây bệnh đường hô hấp và tim mạch cho người dân sống trong vùng chăn nuôi.

Chăn nuôi lợn của Đan Mạch là chăn nuôi công nghiệp, các biện pháp giống, thức ăn và quản lý được chuyên môn hoá và hiện đại hoá. Quản lý môi trường chăn nuôi luôn gắn chặt với quản lý kỹ thuật. Quản lý môi trường chăn nuôi toàn diện và chặt chẽ là yếu tố quyết định đưa nghề chăn nuôi lợn của Đan Mạch lên hàng đầu của thế giới.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm