| Hotline: 0983.970.780

Lo xa đội ngũ khoa học kế thừa

Thứ Ba 14/09/2010 , 10:01 (GMT+7)

Đó là lời tâm sự của TS Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, với PV NNVN trước tình trạng nhiều cán bộ trẻ sau khi được đào tạo lại chuyển ra làm cho DN.

TS Lê Văn Bảnh – Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL

Thời gian gần đây tình trạng cán bộ trẻ đang công tác ở một số Viện, trường sau khi được đào tạo có học vị thạc sĩ, tiến sĩ, có chuyên môn giỏi đã xin nghỉ, tìm cách chuyển làm cho DN. Tìm hiểu thực trạng này, PV NNVN đã có cuộc trao đổi với TS Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL.

Cách đây 5 năm, Viện Lúa ĐBSCL đã chính thức đảm nhận thêm vai trò đào tạo cán bộ khoa học ngành nông nghiệp sau đại học và mở rộng sang nhiều lĩnh vực nghiên cứu cây trồng, vật nuôi, hệ thống canh tác…Ông đánh giá thế nào về quá trình song hành giữa công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo?

Tôi cho rằng nguồn nhân lực rất quan trọng. Sở dĩ trong nhiều năm qua Viện làm tốt và đạt được những thành tựu là do có đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học giỏi. Thiết bị chuyên môn có thể đầu tư trang bị từ sự hỗ trợ của Bộ NN- PTNT, ngân sách Nhà nước. Riêng con người muốn có chuyên môn giỏi phải có kế hoạch đào tạo. Song hành trong nghiên cứu khoa học về cây lúa là quá trình làm giống, kỹ thuật canh tác, khoa học đất, hệ thống mùa vụ cây trồng, BVTV, cơ khí, cơ giới hóa trong nông nghiệp… Vì vậy Viện phải vừa nghiên cứu đồng thời có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ, đáp ứng nhu cầu cho từng lĩnh vực.

Viện Lúa ĐBSCL là nơi ngay từ đầu rất chú trọng đào tạo, đưa lớp cán bộ trẻ giàu tâm huyết khoa học đi tu nghiệp ở nhiều nước. Đó là lớp cán bộ nguồn giỏi chuyên môn, đóng góp vào thành tựu nông nghiệp nước nhà. Kinh nghiệm đó được Viện duy trì như thế nào?

Đó là thời kỳ đầu, những năm 1977-1980, Viện đã cử nhiều người là lớp kỹ sư trẻ đi học. Hồi đó Viện Lúa chủ yếu lấy giống từ Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) đưa về khảo nghiệm, nhưng từ sau năm 1990 khi nhóm cán bộ khoa học tu nghiệp từ nước ngoài trở về, đủ khả năng chọn tạo ra hàng loạt giống lúa OM thích nghi trong vùng; còn giống lúa của IRRI giảm dần.

Nhìn lại sau 15 năm lớp cán bộ nguồn đảm nhận vai trò chính yếu trong nghiên cứu, tên tuổi một số nhà khoa học giỏi được giới khoa học trong và ngoài nước công nhận và hiện đang công tác ở nhiều viện nghiên cứu về nông nghiệp trong nước. Thành tựu về cây lúa ở ĐBSCL đã vang xa.

Tuy nhiên, số cán bộ ấy giờ sắp...lên lão rồi?

Đúng vậy, nhìn lớp cán bộ đầu đàn ngày ấy, bây giờ tuổi đã sắp về nghỉ hưu, nên Viện phải lo đào tạo nguồn nhân lực kế thừa. Viện luôn tạo điều kiện tốt cho những cán bộ trẻ học tập sau đại học trong và ngoài nước. Hiện nay, Viện có 17 người đang học chuẩn bị có bằng thạc sĩ; 16 cán bộ đang nghiên cứu sinh để có bằng tiến sĩ, trong đó 8 người đang học ở nước ngoài.

Thực chất đội ngũ nghiên cứu hiện thời của Viện có tâm huyết, “cháy” hết mình với con đường khoa học như lớp trước?

Việc đào tạo vốn đã khó, thế mà giữ người sau khi học trở về chịu ở lại tận tâm với công việc lại càng khó hơn. Viện là cơ quan sự nghiệp khoa học, nghiên cứu giống lúa thuần, chuyển giao cho nông dân và gần như làm công ích là chính nên nguồn thu rất thấp. Hiện thời lớp cán bộ trẻ về Viện rất đông. Lãnh đạo  biết rất rõ anh em trẻ về Viện công tác là mong sau đó được đưa đi học tiếp tục. Tuy nhiên vấn đề là chế độ chính sách, lương kỹ sư trẻ ra trường khoảng 2 triệu đồng/tháng. Trong khi nếu đi làm cho các DN bên ngoài có mức lương cao hơn. Một số cán bộ trẻ sau khi học thành tài, các DN sẵn sàng tuyển dụng với mức lương 500-1.000 USD/tháng, nhiều người vì thế ra đi.

Trước khi được đưa đi đào tạo phải có cam kết trở về phục vụ theo chứ?

Đúng là trước khi đi họ có cam kết, nhưng về làm họ viện lý do hoàn cảnh gia đình, xin nghỉ hoặc có người nói thẳng xin chuyển công tác. Dù điều đó không được chấp thuận họ vẫn nghỉ. Với những người đã không còn nhiệt tình cống hiện thì có giữ lại họ cũng lãng công. Còn việc bắt buộc đền bù chi phí đi học thật khó, có ai trả đâu.

Đúng là dòng chảy chất xám đang trôi từ Nhà nước sang khu vực tư nhân. Theo ông chế độ đãi ngộ hiện nay cần thay đổi thế nào để giữ được nhân tài?

Tôi cho rằng ngoại trừ một số cán bộ trẻ vì họ muốn sau khi học về có tiền nhiều ngay nên giữ lại rất khó. Tuy vậy vẫn còn một số người sau khi học trở về tâm huyết với khoa học, họ vẫn ở lại vì có những đề tài nghiên cứu, làm việc trong Viện với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng tương đối đầy đủ; tinh thần, đời sống tạm chấp nhận.

Song, tôi lo 5- 10 năm tới nếu không có chính sách tăng thu nhập thỏa đáng, lôi cuốn sẽ thiếu hụt nghiêm trọng cán bộ nguồn nghiên cứu khoa học. Hiện nay, vẫn còn lớp cán bộ đầu đàn giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm và vẫn có thể điều động nhân sự đáp ứng yêu cầu công tác trong các lĩnh vực nghiên cứu. Nhưng mai kia số lớp cán bộ này về hưu, số cán bộ kế thừa liệu có theo nghề hay chạy theo đồng tiền? Tôi mong sớm có chính sách đãi ngộ cho các nhà khoa học nghiên cứu theo chế độ tương xứng. Hiện nay một số cán bộ khoa học phải lo “chân trong, chân ngoài”, khó an tâm công tác.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm