| Hotline: 0983.970.780

Nắm vững thị trường tiêu thụ

Thứ Sáu 04/01/2013 , 10:30 (GMT+7)

Phần lớn sản phẩm nông nghiệp, nhất là trái cây ở ĐBSCL làm ra khó XK.

Phần lớn sản phẩm nông nghiệp, nhất là trái cây ở ĐBSCL làm ra khó XK. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới giá cả sản phẩm. TS Bùi Hữu Thuận, Bộ môn Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Cần Thơ cho biết những khó khăn trong ngành XK trái cây ở Việt Nam. 

Có một số ý kiến cho rằng, cần phải lập nhà máy để chế biến XK, chứ không nên XK thô. Nhưng theo tôi, trước hết cần hiểu đúng từ “xuất thô”. Trong rau trái cần lưu ý rau tươi, trái tươi được coi sản phẩm có phẩm chất cao nhất. Ở góc độ ăn uống, thực phẩm là những thứ cần cho sức khỏe. Người ta thích ăn nhất những thực phẩm thiên nhiên. Nhưng để có những thứ “còn thô”, tức là còn thiên nhiên, như để cho trái cây tươi và sạch của ta hiện diện tại kinh thành Paris thì điều đó không phải dễ.

Người mua muốn thưởng thức phải trả một giá đắt. Nói tóm lại, “thượng sách” là phải XK được thứ trái tươi nguyên. Dĩ nhiên, bên cạnh phẩm chất chính từ rau trái, còn có phẩm chất do văn minh mang đến, đó là vệ sinh, an toàn thực phẩm. Sản phẩm tốt như thế mới bán được giá cao nhất. Như vậy, rau trái tươi cần đảm bảo về mặt vệ sinh, an toàn, lành tính. Đây là điểm mới và cũng là điểm yếu của rau quả Việt Nam ở góc độ SX, quản lý và sử dụng.

Ngoài ra, những sản phẩm bán tươi không được vì các lý do khác nhau: Phẩm chất tươi chưa đủ tốt, không giữ được lâu…, thì mới đem đi chế biến. Sản phẩm chế biến thường đạt được tính lâu hư, nhưng không còn sự tươi nguyên, kèm theo chi phí chế biến gia tăng do phải đầu tư trang thiết bị, nhà máy, có khi phải bỏ thêm những phụ gia trong quy trình chế biến mà nhiều người tiêu dùng cũng không mong muốn. Dẫu vậy, sản phẩm chế biến lại bán ít lời hơn so với bán tươi. Nói tóm lại, XK trái cây chế biến vẫn là “trung sách”. Tuy nhiên để XK được bền vững, có lời thì cần một sự ổn định nhiều mặt.

Còn vì sao, thiên hạ không mặn mà trong việc đầu tư nhà máy chế biến? Có lẽ, SX muốn tiến hành được phải đảm bảo thêm về lợi nhuận. Nhưng khó để có thể nói thật đúng về lợi nhuận. Có thể nói hiệu quả tài chính của đầu tư vào SX phải sinh lợi nhiều hơn gửi tiền vào ngân hàng.

Hơn thế nữa, tiền dùng SX, thường nhất là vốn lưu động. Tiền này phải đi vay. Như vậy, hiệu quả của đầu tư SX phải cao hơn hiệu quả ngân hàng cho vay. Nói cách khác, nếu như ngân hàng lãi to trong nhiều năm qua; nhưng đầu tư cho SX lỗ to như tình hình hiện nay, điều này không ổn rồi!

Thí dụ: Hiện nay lãi suất cho ngân hàng vay 100 đ là 8 - 9 đ/năm. Nếu đầu tư có lãi suất < 9%/năm người đầu tư sẽ chọn cách bỏ tiền vào ngân hàng. Nếu đi vay ngân hàng để đầu tư với lãi suất > 12-15%. Như vậy vai 100 đ phải sinh lợi để trả cho ngân hàng  15 đ/năm. Người đầu tư còn phải sinh lợi cho mình hơn 15 đ/năm mới có thể đáng làm. Vậy nếu việc làm 100 đ sinh lời 10 đ, một năm người kinh doanh phải quay vòng vốn hơn 3 lần mới có thể làm.

Đó là chuyện lợi nhuận. Còn những khó khăn khác phải kể đến khiến nhà đầu tư không muốn làm là vì: (i) Khó khăn từ nguyên liệu chưa ổn định, giá cao so với thế giới, phẩm chất vệ sinh an toàn còn nhiều vấn đề. (ii) Khó khăn về công nghệ áp dụng được ở quy mô công nghiệp có tính khả thi về kinh tế để sản phẩm có phẩm chất ổn định và cạnh tranh được. (iii) Khó khăn khác là thị trường tiêu thụ được với số lượng lớn. Tiêu thụ ở đâu, thời gian? Ai mua sản phẩm của mình? Điều này liên quan đến nhiều chi tiết khác về phẩm chất, phương thức thương mại… (iv) Kế đến là tiêu thụ phải có lãi ổn định. (v) Ngoài ra, nhà đầu tư còn phải tính được những phương cách đối phó có thể khi có biến động về nguyên liệu, thị trường tiêu thụ do nhiều yếu tố.

Ổn định trong SX, trong tiêu thụ, XK trước hết là các chính sách. Các chính sách này cần sự ổn định lâu dài, ít biến động. Có biến động phải là thay đổi theo chiều có lợi cho nhà kinh doanh. Ví dụ, lãi suất ngân hàng phải ổn định, có thay đổi là sự thay đổi có lợi cho người vay. Chứ đầu tư nửa chừng mà biến động bất lợi cho người vay thì chắc nhà đầu tư sẽ phá sản.

Mặt khác, cần nắm vững thị trường tiêu thụ. Như trái chuối có thị trường tiêu thụ mạnh, nhưng muốn xuất khẩu được trái chuối thì phải có nông trường chuối đảm bảo số lượng lớn và chất lượng đồng đều. Không làm được điều này thì cũng không thể kiếm được thị trường.

Ngoài ra, phải nắm vững yêu cầu sản phẩm về chất và về lượng. Chẳng hạn, những sản phẩm thu hoạch phải đảm bảo nguồn gốc và SX sạch. Trái cây sau thu hoạch phải làm vệ sinh sạch sẽ, giữ cho chậm hư bằng cách đưa vào kho mát ở nhiệt độ ổn định thích hợp. Rồi phải phân phối nhanh để sớm đến tay người tiêu dùng khi sản phẩm còn phẩm chất tốt…

Không làm được điều này thì mới bảo quản đông lạnh; nhưng đông lạnh thì không bằng, vì ít nhiều trái cây cũng giảm phẩm chất. Mặt khác, cần nắm vững những nguy cơ liên quan đến biến động giá, phẩm chất, nhu cầu. Vả lại, phải có được công nghệ phù hợp với các yêu cầu kinh tế kỹ thuật để thực hiện ở quy mô phù hợp.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm