Năm 2016 mở ra cho giai đoạn 5 năm kế hoạch 2016-2020, sau ĐH Đảng toàn quốc lần thứ XII, nước ta hướng đến mục tiêu “cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Tiếp nối kỳ tích của 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đang cần “động lực mới” để chủ động hội nhập, cạnh tranh, vượt qua thách thức.
Hệ quả tích cực hay tiêu cực của hội nhập quốc tế khi nước ta chính thức là thành viên TPP, FTA, AEC… các “sân chơi toàn cầu” không tạo ra chiến thắng mà nó phụ thuộc vào cách chơi, sức chơi của “đội bóng” - nông nghiệp ĐBSCL, hơn là lợi thế từ các sân chơi lớn mang lại.
Thành tựu, điểm yếu và thách thức mới
3 năm thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, ĐBSCL đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo ra diện mạo mới của vùng, nhất là những thành tựu trong sản xuất nông, thủy sản, xây dựng nông thôn mới.
Nông dân ĐBSCL ngày càng tiếp cận và ứng dụng nhanh hơn với những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Mô hình cánh đồng lớn (CĐL) đạt được thành công bước đầu rất quan trọng trong liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo, gắn sản xuất với thị trường, nông dân, nhà khoa học với doanh nghiệp.
Mô hình CĐL không chỉ giới hạn ở sản xuất lúa mà còn được áp dụng trong các ngành sản xuất khác như: mía đường, chăn nuôi và thủy sản.
Xây dựng nông thôn mới bước đầu tạo ra diện mạo mới với 19 tiêu chí quốc gia, tạo ra không gian sống, lao động sản xuất và hưởng thụ vật chất văn hóa, tinh thần tốt hơn cho người dân.
Tuy nhiên, vùng này cũng còn nhiều tồn tại, yếu kém và đứng trước nhiều thách thức trong phát triển và hội nhập, cạnh tranh. Tăng trưởng kinh tế thiếu vững chắc, tiềm năng và lợi thế của vùng chưa được đầu tư, khai thác đúng mức, đúng tầm; kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng.
Hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng về giao thông, thủy lợi. Giá trị sản xuất nông nghiệp thiếu tính ổn định và có nguy cơ bị thu hẹp diện tích sản xuất do tác động của tình trạng biến đổi khí hậu, nước mặn xâm nhập, môi trường ngày càng ô nhiễm.
ĐBSCL có xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp truyền thống, mức đầu tư cho vùng còn thấp, đặc biệt là vốn đầu tư cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp so với tổng đầu tư toàn xã hội.
Công nghệ chế biến còn khá lạc hậu, giá thành nông sản còn cao, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất còn thấp; tỷ lệ hao hụt, thất thoát sau thu hoạch còn lớn.
Hệ thống cơ chế, chính sách trong nông nghiệp còn bất cập đã ảnh hưởng đến sức hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào lĩnh vực này. Sự phối hợp của các bộ, ngành, Trung ương thiếu chặt chẽ trong sự liên kết vùng, liên vùng và liên ngành.
Điểm yếu từ nội tại và thách thức trước bối cảnh hội nhập sâu rộng đang đặt ra cho ngành nông nghiệp vùng ĐBSCL yêu cầu cấp thiết và mang tính tất yếu là phải đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp, tăng cường liên kết vùng hiệu quả và thực chất.
Liên kết vùng không chỉ nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương trong vùng mà còn phát huy lợi thế vùng và quốc gia, tạo ra sức mạnh cho một “đội bóng mạnh” trên “sân chơi lớn”.
Đẩy mạnh tái cơ cấu, tăng cường liên kết vùng
Theo lộ trình cam kết, đến 31/12/2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức được thành lập, nhiều hiệp định thương mại, đầu tư, kinh tế đa phương và song phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Liên minh kinh tế Á – Âu, hoàn tất đàm phán Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)… sẽ tác động sâu sắc và toàn diện đến nền nông nghiệp.
Bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng đang đặt ra yêu cầu bức thiết tái cơ cấu nông nghiệp, tăng cường liên kết vùng ĐBSCL, nâng cao năng lực cạnh tranh ngành nông nghiệp. Liên kết vùng thời gian tới phải vượt qua các thách thức và các điểm nghẽn tăng trưởng.
Theo đó, cần điều chỉnh lại quy hoạch vùng, cần có những nghiên cứu cơ bản về vùng và xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học vùng (tài nguyên đất, nước, rừng, biển…) để làm nền tảng phân tiểu vùng và liên kết vùng, kết nối không gian phát triển và sản xuất, từ kết nối sản xuất đến tiêu thụ; kết nối thị trường, doanh nghiệp.
Sự kết nối thể chế và phối hợp chính sách mang tính “pháp định hóa”, tạo ra hiệu lực chỉ huy thống nhất cấp vùng, mang ý nghĩa quyết định.
Các địa phương trong vùng phải có sự đồng thuận về tư duy, tầm nhìn và quy hoạch phát triển vùng và xác định rõ lợi ích của vùng là tiền đề, điều kiện thực hiện các lợi ích của địa phương mình.
Đổi mới tư duy “kinh doanh nông nghiệp”
Tái cơ cấu nông nghiệp là một quá trình phức tạp, khó khăn và lâu dài, cần được thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với thực tế trên cơ sở xây dựng một hệ thống giám sát, đánh giá và tham vấn thông tin phản hồi từ các bên liên quan, nhất là trong bối cảnh hội nhập, trước những tác động mạnh mẽ và sâu sắc từ bên ngoài.
Vì vậy, đòi hỏi không chỉ là “sự chuyển đổi lớn” của ngành nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, mà cần sự tham gia mang tính quyết định của nông dân và doanh nghiệp. Người nông dân phải ở vị trí trung tâm và vai trò chủ thể để thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Tư duy về lợi thế cần được thể hiện trong một chiến lược quốc gia, vùng miền để tạo ra sức cạnh tranh hơn là quanh quẩn trong địa giới hành chính tỉnh, huyện như vừa qua.
“Chiếc bánh nông sản” với những lợi thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi cho ngành trồng trọt, chăn nuôi, các sản phẩm chủ lực như lúa gạo, trái cây, thủy sản của Việt Nam cần được “chế biến” thành những “chiếc bánh” ngon hơn, bán giá cao hơn, lãi hợp lý hơn cho những người làm ra nó.
Nông sản có được phát huy lợi thế cạnh tranh hay không bằng chính tư duy, tầm nhìn và cách làm. Chiếc bánh ngon của mình cũng có thể thành miếng mồi ngon của thiên hạ!
Mở cửa cho nước ngoài vào, chuẩn bị tâm thế và tư thế để chủ động hội nhập cũng có nghĩa là chúng ta phải xác định rõ lộ trình đến khi nào ta sẽ kết thúc vai trò làm thuê, làm gia công, tiến đến làm chủ?
Trong khi trình độ quản lý “tầm thấp” khó vượt lên trên sự ma mãnh thương trường của các kiểu chuyển giá, lời thật, lỗ giả, đã không “áp” được nhà đầu tư ngoại thực hiện các nghĩa vụ, thì doanh nghiệp nội chỉ được khuyến khích chung chung, không thúc đẩy phát triển sáng tạo, đầu tư dài hạn, mạnh ai nấy làm, thiếu liên kết tạo sức mạnh.
Phần lớn trong số hơn 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa phải lo ăn xổi ở thì, đối phó ngắn hạn hơn là chiến lược dài hạn.
Danh xưng “Vựa lúa quốc gia” dành cho ĐBSCL đã có từ lâu đời, nhưng đã đến lúc cần nhận thức lại. Đã đến lúc không cần tự hào về mỹ từ "vựa lúa". Hay nhìn rộng ra, người Việt chúng ta cũng không cần thiết phải tự hào là cường quốc số 1, số 2 thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, cá tra, “vương quốc trái cây”.
Tự hào làm chi là những người làm ra thật nhiều nông sản cung ứng cho toàn cầu mà dân ta vẫn còn nhiều khó khăn. Cần thương mại hóa ngành lúa gạo, và sản xuất nông sản, cải thiện sinh kế, nâng cao thu nhập cư dân nông thôn để làm giàu.
Định hướng chiến lược, giải pháp chiến thuật cho “đội bóng” trong “sân chơi mới”
Để tái cơ cấu và phát triển bền vững nền nông nghiệp ĐBSCL, chủ động hội nhập, cạnh tranh, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, cần những “định hướng chiến lược” lẫn “giải pháp chiến thuật” cho tái cơ cấu nông nghiệp ĐBSCL:
Một là, quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô liên kết vùng trên cơ sở gắn với cung – cầu thị trường.
Cần tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng cường các mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, HTX, giữa doanh nghiệp, HTX với người dân, giữa người dân với người dân, nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm chặt chẽ hơn. Tái cấu trúc nông nghiệp ĐBSCL phải theo hướng sản xuất hàng hóa lớn.
Quá trình tái cơ cấu phải chú trọng đến việc cải tiến, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo tính hài hòa trong việc phân chia lợi ích giữa các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ưu tiên cho chuỗi nông sản chủ lực lúa gạo, trái cây, tôm, cá tra.
Hai là, trên cơ sở điều 52 – Hiến pháp 2013 về “tăng cường liên kết kinh tế vùng”, các văn bản pháp lý của Chính phủ về liên kết vùng, cần có quy chế liên kết vùng điều chỉnh trong một số lĩnh vực có thế mạnh, nhất là trong nông nghiệp, thủy sản và có thể triển khai ngay vào thực tế để phát huy hiệu quả của các mô hình liên kết đã có.
Ba là, tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, tạo và nhân nhanh các giống có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Tăng cường năng lực hợp tác nghiên cứu khoa học giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng ĐBSCL với các vùng miền khác trong cả nước.
Đưa nhanh các công nghệ mới vào tất cả các khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
Bốn là, xây dựng và thí điểm các khu nông nghiệp công nghệ cao, các “Cluster lúa gạo, trái cây, thủy sản” dựa vào những tiến bộ khoa học – công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, các mô hình liên kết, quản lý theo tiêu chí hiện đại dựa vào tri thức mới.
Tầm nhìn dài hạn trước bối cảnh hội nhập, cạnh tranh cho một ĐBSCL phát triển an toàn, trù phú và bền vững trong tương lai đòi hỏi phải đẩy mạnh tái cơ cấu nền nông nghiệp, tăng cường liên kết vùng. Một “sân chơi lớn” từ hội nhập chỉ là cơ hội. Sức mạnh và chiến thắng chỉ đến với một “đội bóng” mạnh. Sức mạnh của một “đội bóng” luôn được tạo ra từ mối liên kết của một tập thể. Tái cơ cấu, liên kết hợp tác và hội nhập vừa là yêu cầu, vừa là động lực cho giai đoạn mới đang mở ra. |
(*): Tác giả hiện là Ủy viên Chuyên trách Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ