| Hotline: 0983.970.780

Triển vọng lúa lai ở ĐBSCL

Thứ Ba 03/06/2014 , 08:45 (GMT+7)

Lúa lai là một giải pháp kỹ thuật tăng năng suất lúa cho vùng trồng lúa nhiệt đới đã được thực tiễn chứng minh.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa hàng hóa lớn của nước ta, với diện tích trồng lúa khoảng 4 triệu ha và sản lượng 24 triệu tấn lúa/năm.

Nhưng hầu hết các tiềm năng về diện tích, tăng vụ, năng suất của các giống lúa thuần tại khu vực này đã được khai thác đến mức giới hạn. Trong khi đó biến đổi khí hậu và nước biển dâng dự kiến sẽ làm ĐBSCL mất đi hàng trăm ngàn ha đất canh tác lúa. Đây quả là một bài toán hóc búa nếu muốn tiếp tục tăng sản lượng lương thực cho vựa lúa này trong tương lai.

Đó là chưa kể diện tích đất trồng lúa giảm do đô thị hóa, thành lập khu công nghiệp, chuyển đổi sang cây trồng có lợi tức cao hơn, dân số tiếp tục tăng mạnh… Vì vậy giải pháp tăng năng suất lúa là một yêu cầu thực tiễn và cũng là thách thức lớn.

Lúa lai là một giải pháp kỹ thuật tăng năng suất lúa cho vùng trồng lúa nhiệt đới đã được thực tiễn chứng minh. Năm 2011 diện tích lúa lai nhiệt đới ở Ấn Độ là 2.000.000 ha, Bangladesh 700.000 ha, Indonesia 600.000 ha và Phillipines khoảng 350.000 ha. Như thế chắc chắn lúa lai nhiệt đới cũng phát triển được ở ĐBSCL.

Hiện có hai giống lúa lai đã khẳng định được vị thế trong SX ở ĐBSCL là B-TE1 của Cty Bayer và HR182 của Cty CP Giống cây trồng miền Nam (SSC). Thực tế cho thấy trong những năm qua, 2 giống lúa lai này đã được nông dân nhìn nhận như là một biện pháp phá trần năng suất hiện nay.

Ước có khoảng 500 - 600 tấn hạt giống lúa lai đã bán ra ở ĐBSCL mỗi năm trong giai đoạn 2012-2013, phần lớn là giống B-TE1 cho vùng đất tôm xen canh lúa. Giống lúa lai HR182 mới thâm nhập thị trường trong 4 năm qua cũng đã được gieo trồng khoảng 3.000 ha/năm.

Được đầu tư cùng mức như lúa thuần, với mức sạ 40 - 50 kg hạt giống lúa lai, HR182 có thể cho năng suất 8 - 9 tấn/ha, vượt lúa thường từ 1 - 1,5 tấn/ha trong 95 - 100 ngày sinh trưởng. Với giá giống hiện nay 70.000 - 80.000 đ/kg, giá lúa bán ra 6.000 đ/kg, nông dân trồng lúa lai có lợi tức cao hơn trồng lúa thường khoảng 5 triệu đ/ha.

Như vậy nếu có giống lúa lai thích nghi tốt, cho năng suất tăng thêm khoảng 1 tấn/ha, có chất lượng gạo xuất khẩu và cơm ngon thì chỉ cần khoảng 500.000 ha trồng lúa lai ở ĐBSCL, VN đã có thêm hơn nửa triệu tấn lúa hàng năm xuất khẩu mà chỉ phải đầu tư chi phí hạt giống, không mất thêm các khoản đầu tư khác.

Tiềm năng to lớn như thế nhưng do nhiều nguyên nhân, lúa lai ở ĐBSCL vẫn phát triển chậm so với các nước nhiệt đới cũng gieo cấy được lúa lai như Ấn Độ, Bangladesh, Philippines. Có một số nguyên nhân như thiếu sự đầu tư của nhà nước về nghiên cứu chọn tạo giống, kỹ thuật thâm canh, các chính sách khuyến nông…

Nhưng nguyên nhân chủ yếu là sự “cạnh tranh kép” của lúa thuần. Lúa lai chỉ phát triển mạnh và bền vững ở ĐBSCL nếu trồng lúa lai đem lại lợi nhuận cao hơn hẳn lúa thuần cho người nông dân và SX hạt giống lúa lai cũng phải đem lại lợi nhuận cao hơn SX lúa giống thuần. Ta thử phân tích các điều kiện để giải quyết hai thách thức này.

SX lúa lai phải có hiệu quả kinh tế rõ rệt so với SX lúa thuần

Duvick D.N, chuyên gia nổi tiếng về ngô lai của Mỹ, tổng kết kinh nghiệm phát triển giống ngô lai trên thế giới cho thấy lợi nhuận tăng thêm do trồng giống lai phải gấp 3 lần số tiền chênh lệch do mua hạt giống lai. Để lúa lai có sức hấp dẫn như bắp lai hoặc ưu thế lai phải gia tăng khoảng 15 - 20% lợi nhuận so với dùng giống thuần mới hấp dẫn nông dân.

Với năng suất lúa thuần từ 5 tấn/ha vụ HT và 7 tấn/ha vụ ĐX thì lúa lai phải đạt 6 tấn/ha vụ HT và 8,5 tấn/ha vụ ĐX thì mới có lợi nhuận áp đảo so với lúa thuần. Lợi nhuận có thể tăng thêm khi hoặc giá lúa lai phải giảm xuống, hoặc giống lúa lai phải có giá trị tăng thêm do tính kháng tốt với các sâu bệnh nguy hiểm hay chất lượng gạo cơm.

Các giống lúa lai trong SX hiện nay tuy đạt ưu thế lai về năng suất nhưng còn những nhược điểm khác làm cho nông dân khó chấp nhận như B-TE1 nhiễm rầy nâu, vàng lùn, thời gian sinh trưởng dài không đưa vào vùng lúa 3 vụ được, chất lượng gạo chưa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Còn giống HR182 chất lượng cơm chưa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng.

Sở dĩ không DN giống nào dám tin vào khả năng nghiên cứu thành công lúa lai ở ĐBSCL vì họ chưa phân tích được thấu đáo bài toán lợi nhuận so sánh giữa lúa lai và lúa thuần.
Nông dân ĐBSCL tư duy khác nông dân ĐBSH, dân trí, tập quán SX lúa cũng khác nhau. Vì vậy đem tư duy làm lúa lai phía Bắc vào áp dụng ở phía Nam chắc chắn sẽ thất bại. Chỉ nhìn nhận và chấp nhận được vấn đề này mới mở ra hướng đi cho cây lúa lai trên vùng đồng bằng châu thổ Nam bộ.

Do đó để lúa lai phát triển nhanh chóng và bền vững ở ĐBSCL cần nhiều tiến bộ vượt bậc trong công tác lai tạo và kỹ thuật SX hạt giống cũng như kỹ thuật thâm canh để phát huy tốt ưu thế lai.

SX hạt giống lúa lai phải có hiệu quả kinh tế hơn SX lúa thuần

Cung ứng hạt giống dồi dào, ổn định và giá hợp lý là thách thức rất lớn cho doanh nghiệp giống lúa lai. SX hạt giống lúa lai đòi hỏi nông dân có trình độ kỹ thuật cao, chịu rủi ro thất bát do thời tiết gấp nhiều lần so với lúa thuần, sử dụng nhiều lao động trong khi nhiều vùng trồng lúa trên cả nước khan hiếm lao động.

Trong thời giá hiện nay ở ĐBSCL đầu tư cho 1 ha lúa thuần khoảng 20 - 25 triệu đồng, thu 7 - 8 tấn/ha với giá bán 6.000 đ/kg nông dân thu 42 - 48 triệu đ/ha, lợi nhuận ròng 22 - 23 triệu đ/ha. SX hạt lúa F1 cần đầu tư 30 - 35 triệu đ/ha. Do đó chỉ có thể SX được hạt giống lúa lai nếu việc này đem lại lợi nhuận ròng cho nông dân gấp rưỡi SX lúa thuần trở lên, tương đương với tổng thu trên 1 ha khoảng 60 - 70 triệu đ/ha.

Chỉ có thể đạt con số này với những dòng mẹ cho năng suất hạt trung bình 2,5 - 3 tấn/ha. Dòng mẹ của các giống lúa lai nhiệt đới đang phổ biến của các công ty nước ngoài thuộc thế hệ dòng IRRI phóng thích những năm 90 của thế kỷ trước, chỉ có thể cho năng suất trung bình 1,5 tấn/ha, rất khó mà đem lại lợi nhuận cho nông dân SX hạt giống gia công cho các công ty.

Kiên trì theo đuổi việc nghiên cứu lúa lai từ năm 2000 đến nay, SSC đã có một gói giải pháp kỹ thuật đồng bộ cho việc phát triển lúa lai ở ĐBSCL giúp giải quyết các bất cập trên. (Còn nữa)

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm