| Hotline: 0983.970.780

Vực dậy nghề nuôi ngọc trai

Thứ Năm 08/12/2016 , 14:35 (GMT+7)

Trong ngành động vật thân mềm, nuôi cấy ngọc trai đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn, doanh thu tính theo diện tích 1m2 mặt nước, nuôi cấy ngọc trai gấp 16 - 20 lần nuôi cá và nuôi các động vật thân mềm khác...

Đó là nhận định của ông Nguyễn Mạnh Thắng, Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Cty CP Ngọc trai Việt Nam.
 

Công nghệ sẵn sàng

Nghề nuôi cấy ngọc trai ở nước ta ra đời được 50 năm, sớm so với các nước Đông Nam Á nhưng lại chậm phát triển. Do bị động về công nghệ sản xuất, các công ty nuôi cấy ngọc trai trong nước đã ngừng sản xuất hoặc chuyển đổi kinh doanh sang trang sức ngọc trai. Riêng 4 công ty nuôi cấy ngọc trai Nhật Bản và Cty CP Ngọc trai Việt Nam (ở Quảng Ninh) còn nuôi cấy ngọc Akoya. Sản lượng ngọc khoảng 1,5 - 2 tấn/năm. Lượng ngọc trai này tạm xuất về Nhật qua công nghệ sau thu hoạch tái xuất sang các nước khác.

09-01-29_nuoi-cy-ngoc-tri-phu-quoc
Thu hoạch ngọc trai ở Phú Quốc
 

Kể từ năm 1967, chúng ta đã có nhiều đề tài, dự án nghiên cứu về nuôi trai lấy ngọc và cho ra đời rất nhiều quy trình công nghệ, từ sản xuất con giống và nuôi cấy các loài Pinctada martensii Dunker, Sinohyriopsis cumingii Lea; quy trình sản xuất nhân ngọc, dây chuyền công nghệ ngọc trai sau thu hoạch; dây chuyền công nghệ sản xuất nhân ngọc.

Việt Nam hoàn toàn chủ động tổ chức sản xuất khép kín, tiêu thụ sản phẩm ngọc trai loài Pinctada martensii Dunker, Sinohyriopsis cumingii Lea, cho ra ngọc có nhân cứng kích thước đại trà 9 - 12mm và độ dầy từ 0,4 - 1mm. Chất lượng ngọc có thể thay thế dần sản lượng 40 tấn/năm ngọc Akoya kích thức nhỏ do Nhật Bản, Trung Quốc sản xuất và 1.000 tấn/năm ngọc trai nước ngọt cấy bằng mô tế bào không có nhân cứng chất lượng thấp do Trung Quốc sản xuất.

Theo số liệu Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2008 - 2015 và tầm nhìn năm 2020 của Bộ Thủy sản (nay là Bộ NN-PTNT), đến năm 2007, chúng ta có khoảng 450.000ha nước mặn và 443.000ha nước ngọt (hầu hết mặt nước lớn của các hồ chứa chưa sử dụng) chưa sử dụng. Những diện tích nước mặn, ngọt này phù hợp nuôi cấy ngọc trai.

Chúng ta còn lúng túng chưa lựa chọn được đối tượng nuôi phù hợp những diện tích nước mặn, mặt nước ngọt còn hoang hóa. Trong khi mặt nước này rất phù hợp cho nuôi trai lấy ngọc. Nhưng, ngọc trai lại không được các ngành chức năng coi là đối tượng chủ lực. Và vì thế, dường như không có cơ chế gì hỗ trợ.

Ông Nguyễn Mạnh Thắng cho biết: Nếu sử dụng 1% diện tích mặt nước còn hoang hóa ngày để nuôi cấy ngọc trai được khoảng 568 triệu con trai Pinctada martensii Dunker và 221 triệu con trai Sinohyriopsis cumingii Lea.

Sản lượng ngọc trai loại A đến AAA dự tính là 138 tấn kích thước trung bình 9mm và 35 tấn kích thước trung bình 7,5 mm. Tổng doanh thu ngọc thô ước khoảng 3 - 5 tỷ USD. Chế biến thành ngọc thương phẩm, tổng doanh thu ước đạt 10 - 15 tỷ USD. Ngoài ra còn cung cấp cho thị trường khoảng 54.000 tấn vỏ, 568 tấn thịt cơ khép vỏ và 33.400 tấn thịt trai làm nguyên liệu sản xuất cho các ngành nghề khác.
 

Cờ đến tay, phải phất!

Trước đây, sau khi cấy, nuôi 12 tháng thu hoạch ngọc. Để ngọc trai Việt Nam cạnh tranh được trên thị trường, cần phải kéo dài thời gian nuôi lấy ngọc lên 24 - 48 tháng. Như vậy, diện tích mặt nước sử dụng tăng 2 - 4 lần.

Theo điều 12, Nghị định 27/2005/NĐ-CP ngày 8/5/2005 của Chính phủ: “Diện tích mặt nước biển cho thuê để nuôi trồng thủy sản không quá 30ha trong vùng biển 3 hải lý trở vào bờ hoặc không quá 15ha trong vùng biển cách bờ từ 3 hải lý trở ra. Thời hạn giao, cho thuê mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản không quá 20 năm”. Chính sách này không còn phù hợp để các doanh nghiệp sản xuất ở quy mô công nghiệp, tạo sản phẩm hàng hóa quy mô lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường.

Để mở lối cho sự phát triển của ngành nuôi trai lấy ngọc, Chính phủ cần sớm bổ sung con trai vào những đối tượng nuôi chủ lực hiện nay và quy hoạch lại mặt nước mặn, nước ngọt còn hoang hóa, nhất là mặt nước vùng vịnh, vùng biển có nhiều đảo, các hồ chứa nước tự nhiên, nhân tạo và các con sông ít phù sa đê tạo thuận lợi cho phát triển nuôi cấy ngọc trai.

Để con ngọc trai Việt Nam có thương hiệu quốc gia, phát triển bền vững và tương xứng với tiềm năng, cần tạo ra mô hình liên kết chặt chẽ trong quá trình phát triển sản xuất giữa doanh nghiệp nuôi cấy ngọc trai với ngư dân, nhà khoa học, ngân hàng thương mại. Cách làm này sẽ đem lại lợi ích cho các nhà liên kết trong việc phân chia lợi nhuận, quản lý được chất lượng sản phẩm, giá cả đầu vào và đầu ra, bảo đảm phát triển có kế hoạch, kiểm soát được dịch bệnh.

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ ấm áp quanh năm. Nhiệt độ không khí trung bình hằng năm ở miền Bắc (Quảng Ninh) là 22,7 độ C, Trung bộ (Đà Nẵng) 25,7 độ C, Nam Trung Bộ (Bình Định) 27,1 độ C, Phú Quốc (Kiên Giang) 27,2 độ C. Trai nuôi sinh trưởng đều các mùa vụ, tốc độ tạo ngọc nhanh, có thể cấy ngọc quanh năm, thuận lợi phát triển nghề nuôi cấy ngọc trai thành một ngành công nghiệp.

 

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm