Ông Lê Văn Đông, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Trà Vinh cho biết, những năm qua, Trà Vinh xác định cây dừa là cây trồng chủ lực, đứng thứ 2 sau cây lúa, mang lại giá trị kinh tế cao.
Hết năm 2024, toàn tỉnh có 28.000 ha (đứng thứ 2 trong khu vực và cả nước, sau tỉnh Bến Tre); gần 6.000 ha dừa hữu cơ đạt tiêu chuẩn EU, USDA, Trung Quốc (chiếm 20% diện tích toàn tỉnh). Có 29 mã số vùng trồng (10 mã số vùng trồng xuất khẩu) và 2 cơ sở đóng gói dừa xuất khẩu sang Trung Quốc.
Đặc biệt, Trà Vinh có diện tích dừa sáp hơn 1.300 ha; được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý cho dừa sáp tỉnh Trà Vinh và Hiệp hội Dừa Việt Nam công nhận cây dừa sáp được trồng tại Trà Vinh là “cây dừa Việt Nam”.
80% sản lượng dừa sáp bán dưới hình thức nguyên liệu thô, chủ yếu là tiêu thụ nội địa. Còn lại khoảng 20% sản lượng được chế biến tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Toàn tỉnh hiện có 16 doanh nghiệp và một số cơ sở sản xuất nhỏ.
Trong giai đoạn tới, tỉnh định hướng tập trung phát triển cây dừa ổn định diện tích đạt trên 28.000 ha (đến năm 2030) và trên 30.000 ha (đến năm 2050). Trong đó, dừa hữu cơ gắn với cấp mã số vùng trồng để hướng đến thị trường xuất khẩu đạt trên 50% diện tích. Bên cạnh đó, đẩy mạnh thu hút đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển ngành công nghiệp chế biến dừa.
Theo ông Đông, bên cạnh những thuận lợi, công tác phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ dừa của Trà Vinh vẫn đối diện với nhiều khó khăn như: Đa số các doanh nghiệp ngành dừa trên địa bàn tỉnh thuộc nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho nên, hạn chế về nguồn lực tài chính, năng lực công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm quản lý và điều hành doanh nghiệp, cũng như năng lực về quảng bá sản phẩm và tiếp cận thị trường.
Mức độ chế biến sâu và đa dạng sản phẩm có giá trị gia tăng cao còn ít, chủ yếu bán nguyên liệu cho các doanh nghiệp bên ngoài… Thị trường đầu ra cho sản phẩm dừa Trà Vinh nhìn chung chưa ổn định, làm người trồng chưa an tâm. Mối liên kết giữa doanh nghiệp và các tác nhân khác trong chuỗi giá trị còn thiếu, yếu, không chặt chẽ về mặt pháp lý.
Diện tích dừa mặc dù lớn thứ 2 sau Bến Tre, nhưng việc quy động vùng nguyên liệu tập trung còn hạn chế. Một số doanh nghiệp khi đến tỉnh xây dựng vùng nguyên liệu không liên hệ với cơ quan quản lý Nhà nước và cả cơ quan chuyên ngành để được hỗ trợ về chuyên môn. Khi gặp khó khăn về liên kết tiêu thụ hoặc tái chứng nhận… sẽ không được hỗ trợ kịp thời, ảnh hưởng đến ngành hàng dừa của tỉnh.
Tình hình sâu bệnh gây hại, nhất là sâu đầu đen vẫn là nỗi lo lớn nhất đối với các vườn dừa, đặc biệt là vườn dừa hữu cơ do không thể sử dụng các biện pháp hóa học.
Trên cơ sở đó, ông Đông kiến nghị: cần có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển cho ngành dừa của cả nước theo Quyết định số 431 ngày 26/1/2024 của Bộ NN-PTNT, nhằm giúp các địa phương triển khai thực hiện xây dựng vùng nguyên liệu, phát triển cơ sở sơ chế, chế biến, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư và bao tiêu sản phẩm dừa.
Đối với các doanh nghiệp có diện tích dừa được chứng nhận hữu cơ trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đề nghị thu mua hết sản lượng với giá cả hợp lý (cao hơn giá tại thời điểm từ 10-15% như hợp đồng đã ký). Đồng thời, có nhu cầu mở rộng diện tích sản xuất dừa hữu cơ gắn với cấp mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu thì nhanh chóng liên hệ với các cơ quan chức năng và địa phương để được hướng dẫn, hỗ trợ.