
Buổi làm việc giữa Bộ Thủy lợi Trung Quốc và Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam ngày 24/3. Ảnh: Quỳnh Chi.
Thủy lợi và phát triển kinh tế
Chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Trung Quốc đến Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (VAWR) ngày 24/3 mang ý nghĩa quan trọng, diễn ra trong dịp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Trung. Năm 2025 còn đánh dấu 80 năm ngày truyền thống ngành Thủy lợi Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2025).
Tại buổi gặp, Bộ trưởng Lý Quốc Anh khẳng định, khoa học và công nghệ là nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Theo người đứng đầu ngành thủy lợi Trung Quốc, chúng ta đang đối mặt với những thách thức toàn cầu về tài nguyên nước do tác động của biến đổi khí hậu.
Ông đề xuất 3 lĩnh vực hợp tác chính trong khoa học thủy lợi Việt - Trung: nghiên cứu động lực học sông - biển, ứng dụng công nghệ viễn thám và quản lý an toàn hồ đập.

Bộ trưởng Lý Quốc Anh nêu 3 đề xuất hợp tác giữa Thủy lợi Trung Quốc và Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam. Ảnh: Quỳnh Chi.
“Dù chuyến thăm lần này tại Việt Nam khá ngắn, nhưng tôi đã tận mắt thấy các công nghệ được ứng dụng vào ngành thủy lợi của Việt Nam. Tôi đánh giá cao những giải pháp chủ động đã góp phần giải quyết các thách thức về lũ lụt, hạn hán đối với sản xuất nông nghiệp”, Bộ trưởng Trung Quốc nói.
Đề cập đến điều kiện địa lý, ông Lý Quốc Anh nhận định, các trung tâm kinh tế lớn của Việt Nam đều gắn liền với các lưu vực sông. Do đó, việc bảo vệ các vùng châu thổ không chỉ là vấn đề môi trường mà còn liên quan mật thiết đến ổn định kinh tế. Ông mong muốn các nhà khoa học thủy lợi Việt Nam sẽ dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề này.
Thành tựu khoa học thủy lợi Việt Nam
“Việt Nam vốn là quốc gia nông nghiệp truyền thống, nên thủy lợi từ lâu đã đóng vai trò quan trọng trong phát triển hạ tầng và nông nghiệp”, GS.TS Trần Đình Hòa - Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho biết.
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, thủy lợi luôn gắn liền với sự phát triển của đất nước. Từ thời phong kiến, thủy lợi đã giúp Việt Nam vượt qua các thách thức về quản lý dòng chảy, bảo vệ bờ biển, giảm nhẹ rủi ro thiên tai…

GS.TS Trần Đình Hòa - Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam - chia sẻ về định hướng nghiên cứu của Viện. Ảnh: Quỳnh Chi.
Ngày nay, ngành thủy lợi Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, tiệm cận xu hướng công nghệ tiên tiến của thế giới.
Đối với lĩnh vực thủy nông và quản lý tài nguyên nước, công nghệ tưới tiết kiệm đã được ứng dụng. Gần đây, kỹ thuật tưới ngập - khô xen kẽ được các nhà khoa học lúa gạo phát triển, nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa ĐBSCL.
Bên cạnh đó, ngành cũng phát triển nhiều giải pháp mới về xây dựng, bảo vệ công trình thủy lợi và thủy điện, giúp tối ưu hóa quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước cách bền vững.
Về công nghệ thông tin và tự động hóa, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã nghiên cứu và phát triển các hệ thống giám sát, kiểm soát hồ đập; ứng dụng công nghệ viễn thám để xây dựng cơ sở dữ liệu về hồ chứa và lưu vực sông cho các tỉnh thành trên cả nước. Những thành tựu này góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên nước, đảm bảo an toàn cho hệ thống thủy lợi quốc gia.
Trung Quốc học hỏi kinh nghiệm xử lý mối của Việt Nam
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Lý Quốc Anh đặc biệt quan tâm kinh nghiệm của Việt Nam về xử lý tổ mối nguy hiểm đối với đập hồ. Phát sinh tổ mối là nguyên nhân chính gây mất an toàn hồ đập khi tích nước ở mức cao do mưa bão, lũ lụt.
Ông nói: “Việc đánh giá ảnh hưởng của mối trong thân đập chưa được chú trọng ở Trung Quốc, dẫn đến nhiều sự cố đáng tiếc”.
PGS.TS Nguyễn Quốc Huy, Viện trưởng Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình, cho biết các loài mối gây hại cho đê đập ở Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng do cùng thuộc một khu hệ động vật, với thành phần loài và phương pháp xử lý tương tự nhau. Chính vì vậy, hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này đã đạt được nhiều kết quả tích cực thời gian qua.

Viện trưởng Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình Nguyễn Quốc Huy thuyết trình về kinh nghiệm xử lý tổ mối gây hại thân đập thủy lợi của Việt Nam. Ảnh: Quỳnh Chi.
Về phương pháp khảo sát mối, các chuyên gia Việt Nam sử dụng nghiên cứu sinh học - sinh thái để xác định khu vực có tổ mối, sau đó ứng dụng công nghệ radar để quét và phân tích các khoang rỗng trong thân đập.
“Kỹ thuật quét radar tổ mối đã được các chuyên gia thủy lợi Việt Nam nghiên cứu và phát triển trải dài 20 năm. Phương pháp rất hiệu quả nhờ khả năng phát hiện tổ mối nằm ở độ sâu tới 5 mét, trong khi radar có thể xuyên sâu đến 30 mét”.
Tại Việt Nam, công nghệ xử lý mối bằng radar đã được công nhận và áp dụng theo các quy chuẩn xây dựng, sửa chữa và nâng cấp đê, đập, góp phần đảm bảo an toàn công trình thủy lợi.
Công nghệ thông tin phục vụ dự báo xâm nhập mặn
Chia sẻ sâu thêm về hệ thống giám sát xâm nhập mặn, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam Trần Bá Hoằng thông tin, Viện đã triển khai các trạm quan trắc trực tuyến tại nhiều vị trí ở ĐBSCL, mạng lưới quan trắc bao phủ các vùng nội đồng.
Kết hợp với hệ thống trạm của Trung tâm Khí tượng Thủy văn, Viện có đủ dữ liệu quan trắc cả ở ven sông và ven biển, đặc biệt tại những khu vực có nguy cơ xâm nhập mặn cao. Dựa trên số liệu thu thập được, các nhà khoa học tính toán và dự báo nguồn nước từ thượng lưu, mức độ nước biển dâng cao, triều cường. Từ đó, xác định chiều sâu xâm nhập mặn tại các cửa sông cũng như khu vực nội đồng.
Trước mỗi vụ đông xuân, Viện thực hiện dự báo hạn mặn theo mùa (6 tháng), cung cấp thông tin kịp thời để hỗ trợ công tác chỉ đạo, điều hành sản xuất của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng như các địa phương. Nhờ đó, người dân chủ động thích ứng, điều chỉnh thời vụ nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại do hạn mặn gây ra.
Hệ thống dự báo được triển khai theo nhiều khung thời gian khác nhau, bao gồm dự báo dài hạn 6 tháng, trung hạn 3 tháng, ngắn hạn 1 tháng và dự báo hàng tuần suốt cao điểm hạn mặn.
“Nhờ vào những thông tin dự báo chính xác, khi hạn mặn đến sớm, kế hoạch xuống giống đã được điều chỉnh linh hoạt. Chẳng hạn, việc hoàn thành gieo sạ trước tháng 12 giúp tránh cao điểm mùa khô vào tháng 1 và tháng 2, khi nguồn nước khan hiếm”, PGS.TS Hoằng khẳng định.
Năm 2024, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo thành công việc xuống giống sớm, giúp hạn chế tối đa ảnh hưởng của xâm nhập mặn, đảm bảo năng suất và sinh kế cho người dân vùng ĐBSCL.
Bộ trưởng Trung Quốc kết luận, để thúc đẩy hợp tác, hai bên sẽ cụ thể hóa các nội dung nghiên cứu bằng những kế hoạch và dự án cụ thể, phù hợp với bối cảnh và quy định pháp luật của mỗi quốc gia”.
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Trung Quốc nhận xét: “Trong lĩnh vực an toàn hồ đập, từ công tác đánh giá đến quản lý vận hành, bảo trì công trình, Việt Nam đang đối mặt với bài toán lớn, bởi phần lớn đập đất hiện nay đều là đập cũ, cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo an toàn. Trung Quốc đã tích lũy nhiều kinh nghiệm quản lý và duy tu hệ thống đập. Tôi ủng hộ việc hai nước thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực này”.