| Hotline: 0983.970.780

Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây khoai lang

Thứ Tư 23/10/2013 , 11:04 (GMT+7)

Toàn bộ phân chuồng bón lót khi lên luống bước 1 và phân NPK-S 5.10.3-8 bón lót khi lên luống bước 2...

1. Diện tích và năng suất khoai lang

Cây khoai lang được phân bố rộng rãi ở Việt Nam, có mặt ở trung du và miền núi phía Bắc, châu thổ sông Hồng, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và ĐBSCL. Vùng trồng khoai lang quan trọng nhất là vùng đất cát ven biển thuộc các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận.

Có khoảng 20 giống khoai lang chủ yếu được trồng, trong đó một số giống có năng suất khá cao là: K51, K4 (V15-70), K3, K2, KB1, KL5, Hoàng Long, Hồng Quảng, VX-37, TV1, Chiêm dâu, Nhật 3, Cực nhanh, 143, HL4, KL1, TV1, H1.2… năng suất từ 10 - 30 tấn/ha.

Riêng giống khoai lang K51 năng suất có thể đạt tới 25- 30 tấn trên ha. Hầu hết các giống đều phù hợp với thời vụ thu đông, đông chính vụ hay đông xuân.

2. Thời vụ

Ở nước ta, thời vụ chính trồng khoai lang bắt đầu ngay sau khi thu hoạch vụ lúa hè thu hay vụ mùa, vào khoảng tháng 9 và tháng 10, đôi khi có thể trồng muộn vào đầu tháng 11 đối với những giống ngắn ngày như K51 (TGST 75 -80 ngày).

Ngoài ra, cây khoai lang còn được trồng vụ xuân (trung du, miền núi phía Bắc), vụ hè thu và vụ thu ở các vùng đất ven sông hay ở dưới vườn cây ăn quả, sườn dốc hay đất mới khai hoang vừa làm cây lấy rau cho chăn nuôi vừa làm cây phủ đất chống xói mòn và giữ độ ẩm cho cây lâu năm.   

Trên vùng đất trồng màu, sau khi thu hoạch cây trồng trước, cần cày vùi toàn bộ cỏ dại và thân lá cây vụ trước. Nếu có quả nhiều cỏ dại và phế phụ phẩm của cây trồng trước, có thể gom lại và ủ để làm phân cho cây khoai.  

Với đất dốc, nên cày bừa theo đường đồng mức để hạn chế rửa trôi, xói mòn. Không nên bừa đất quá kỹ, vì nếu làm đất quá nhỏ, lượng dinh dưỡng và đất mất do rửa trôi xói mòn tăng, độ xốp giảm, hạn chế đến sinh trưởng và phát triển của củ.

Với đất ruộng, phải tranh thủ cày bừa ngay sau khi thu hoạch vụ trước. Khoai lang được trồng theo luống với các kích cỡ khác nhau phụ thuộc vào từng loại đất.

- Đất cát:

+ Luống rộng từ 1,2 đến 1,5 m, cao từ 0,45 đến 0,5 m.

+ Dây khoai trồng cắt đoạn 1 và 2 với độ dài 30- 35 cm, không có rễ trên cây.

+ Lấp dây trồng dày hơn 10 cm.

- Đất thịt nhẹ:

+ Luống rộng 1,2 - 1,3 m, cao 0,1 - 0,45 m.

+ Dây khoai trồng cắt đoạn 1 và 2 với độ dài 25 - 30 cm, không có rễ trên cây.

+ Lấp dây trồng từ 7 - 10 cm.

3. Bón phân NPK-S Lâm Thao 

Loại phân

Bón lót

Bón thúc 1

Bón thúc 2

Tính cho 1 ha (kg)

Phân chuồng

8.000-10.000

 

 

NPK-S 5.10.3-8

200-300

 

 

 NPK-S 12.5.10-14

 

350-400

350-400

Tính cho 1 sào Bắc bộ (kg)

Phân chuồng

300-400

 

 

NPK-S 5.10.3-8

10-12

 

 

NPK-S 12.5.10-14

 

13-15

13-15

Kỹ thuật bón phân:

Phân lót: Toàn bộ phân chuồng bón lót khi lên luống bước 1 và phân NPK-S 5.10.3-8 bón lót khi lên luống bước 2.

Bón thúc 1: Thời gian từ 15 - 30 ngày sau khi trồng bón vào hai bên luống, cách gốc 15- 20 cm, có điều kiện thì xẻ rãnh 2 bên hoặc cày xả để 1 - 2 giờ rồi bón phân kết hợp với xới sâu, rồi vun nhẹ để lấp phân.

Bón thúc 2: Thời gian từ 45 - 60 ngày sau trồng. Vắt dây cẩn thận hai bên luống, sau đó bón phân, rồi xới nông, đảo phân và vun cao lấp kín gốc (chú ý không bón phân vào gốc và vào thân lá). 

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm