Qua khảo sát thực tế cho thấy đất vườn cây ăn trái lâu năm đã có những biểu hiện suy thoái như sau: (a) Chất hữu cơ trong đất giảm; (b) Đất bị nén dẽ; (c) Lớp đất mặt và dưỡng chất bị rửa trôi; (d) Đất có pH thấp; (e) Đất bị mặn hóa do phân hóa học; (g) Nấm bệnh trong đất phát triển mạnh.
Để ngăn chặn hay làm chậm tiến trình suy thoái này cho đất vườn cây ăn trái, duy trì năng suất và phẩm chất trái cây, một số biện pháp sau đây cần được áp dụng:
Bón phân hữu cơ: Bón từ 3-5 kg/cây phân hữu cơ Đầu Trâu Fertisoa vào đầu mùa nắng. Trước khi bón, dùng cuốc răng cào nhẹ mặt liếp để giúp đất giữ được phân hữu cơ. Nên tưới thêm nấm Trichoderma để ức chế sự phát triển của nấm bệnh trong đất. Tùy theo nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương mà có thể tự làm phân hữu cơ để bón cho vườn cây ăn trái. Khi mua phân hữu cơ trên thị trường phải biết nguồn nguyên liệu, công nghệ ủ phân và công nghệ phối trộn để bảo đảm có chất lượng tốt.
Quản lý cỏ trong vườn: Cỏ vườn có nhiều lợi ích như hạn chế sự rửa trôi lớp đất mặt, cung cấp hữu cơ, hạn chế sự đóng váng trên mặt liếp. Ngoài ra, rễ cỏ còn làm đất thông thoáng vào lúc mưa dầm vì nó là những “bơm sinh học” giúp tầng đất sâu mau khô ráo. Do đó, không nên tiêu diệt cỏ mà chỉ cắt thấp khi cỏ phát triển quá cao. Một vài loại cỏ thích hợp là Kudzu (cỏ họ đậu, cố định được đạm), Ruzi (cỏ cao sản, chịu rợp có thể sử dụng trong chăn nuôi).
Nuôi dưỡng trùn đất: Trùn đất chỉ thị độ màu mỡ của đất. Trùn đất cày hang giúp đất thông thoáng và xáo trộn chất hữu cơ vào đất. Trùn đất sợ ánh sáng, ban ngày rút xuống sâu, ban đêm lên mặt liếp ăn chất hữu cơ. Bón phân hữu cơ và để cỏ vườn cũng nhằm cung cấp thức ăn cho trùn, giúp trùn đất phát triển. Tránh sử dụng những hóa chất nông nghiệp có hại cho trùn đất và bón phân hóa học phải cân đối.
Tưới nhỏ giọt: Áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt để hạn chế lượng nước tưới dư thừa làm giảm sự rửa trôi lớp đất mặt và trực di dưỡng chất. Việc tưới nhỏ giọt còn tiết kiệm lượng nước tưới, giảm nhiên liệu bơm nước, ít tốn công lao động, hạn chế sự phát tán mầm bệnh, giảm thất thoát phân bón và hạn chế sự hình thành thủy cấp treo trong đất.
Bón phân cải tạo đất: Trung bình hàng năm nên bón 0,5-1 kg/cây phân Đầu Trâu Mặn-Phèn hoặc đá vôi nung (CaO) vào đầu mùa mưa, bằng cách rải đều trên mặt liếp, xới nhẹ cho phân trộn đều vào lớp đất mặt. Cần hiểu rõ tác dụng của từng dạng vôi trước khi sử dụng: (a) Bột đá vôi (CaCO3) tác dụng chậm, thường từ 2-6 tháng sau khi bón tùy theo độ mịn của bột đá; (b) Đá vôi nung (CaO) có tác dụng mạnh và nhanh nhưng dễ gây bỏng khi gặp nước; (c) Vôi tôi (Ca(OH)2) có tác dụng khá nhanh nhưng hay gây ngứa khó chịu.
Bón bùn đáy mương: Bùn đáy mương chứa nhiều xác bã hữu cơ, dưỡng chất và phù sa có thể sử dụng để bón cho đất liếp vườn cây ăn trái. Bồi bùn đáy mương bằng cách tráng một lớp mỏng dày khoảng 3-5 phân đều trên mặt đất vào mùa nắng. Không sử dụng bùn phèn hoặc lấy đất cứng đáy mương vì thường có chứa phèn tiềm tàng.
Cách bón phân hóa học: Độ phì nhiêu của đất vườn cây bị suy thoái nhưng hữu cơ trong đất chưa đủ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho cây, việc bón phân hóa học giúp gia tăng đậu trái, chất lượng trái và khả năng kháng bệnh của cây là việc cần làm, nhưng phải bón phân cân đối cho từng giai đoạn phát triển của cây như sau:
(a) Sau khi thu hoạch trái: Bón 0,5-2 kg/cây phân “Đầu Trâu AT1”. Nếu cây sinh trưởng kém có thể bổ sung thêm 0,2-0,3 kg/cây phân “Đạm Hạt Vàng Đầu Trâu 46A+ ”;
(b) Trước khi ra hoa: Bón 0,5-2 kg/cây phân “Đầu Trâu AT2”;
(c) Sau đậu trái: Bón 0,5-2 kg/cây phân “Đầu Trâu AT3” (có thể bổ sung khoảng 0,2-0,3 kg/cây phân “Đạm Hạt Vàng Đầu Trâu 46A+”);
(d) Trái phát triển: Bón 0,5-2 kg/cây phân “Đầu Trâu Nuôi Trái”. Liều lượng nêu trên thay đổi tùy theo loại cây, tuổi và tình trạng sinh trưởng của cây.