| Hotline: 0983.970.780

Cao Bằng sẽ 'cắt cơn' thiếu nước sạch cho người dân vùng cao

Thứ Hai 12/10/2020 , 10:21 (GMT+7)

Cao Bằng đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, để đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng biên cương luôn đủ nước sạch sinh hoạt hợp vệ sinh.

Nói đến thiếu nước sinh hoạt, nơi Lục Khu của huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng được đưa lên tốp đầu của các tỉnh phía bắc về thiếu thốn trăm bề, ngoài thiếu thốn lương thực, thì người dân Lục Khu còn quanh năm thiếu nước sinh hoạt, có năm nào mưa ít, nắng hạn nhiều, hàng nghìn hộ dân ở Lục Khu bị thiếu nước từ 8 - 9 tháng.

Nhiều hộ dân vùng Lục Khu (xã biên giới) của huyện Hà Quảng đã có nước sạch quanh năm

Nhiều hộ dân vùng Lục Khu (xã biên giới) của huyện Hà Quảng đã có nước sạch quanh năm

Người dân Lục Khu là các xã bám sát với vùng biên viễn, nơi các dãy núi đá vôi cao vút, khô cằn và không có con sông và một dòng suối nào chảy qua. Chính vì thế, nước uống ở Lục Khu được ví còn “quý” hơn hạt gạo.

Chị Sùng Thị Lan, dân tộc Mông, xã Vần Dính tâm sự: Cách đây khoảng 20 năm, cứ vào thời điểm mùa khô, tôi cùng những đứa trẻ trong xóm thường xuyên phải đi xa nhà vài cây số để lấy về được hơn chục lít nước sinh hoạt. Mà gọi là nước sinh hoạt nhưng không quá sạch vì lúc đó nước khe cũng cạn, tìm được vũng nước đục trong vách đá là mừng lắm rồi. Thời đó, nhiều năm dân thiếu nước trầm trọng, các cấp ngành từ tỉnh đến huyện phải cho xe ngựa chở nước sinh hoạt ngược núi mang nước sạch đến “giải khát” cho người dân.

Theo ông Trần Văn Hiệu, Chủ tịch UBND xã Lũng Nặm: Là địa phương giáp biên giới Trung Quốc, những năm qua, vấn đề nước sinh hoạt phục vụ người dân đã được cải thiện đáng kể. Nhờ nguồn vốn từ các chương trình 135, vốn 30a, xã chúng tôi được đầu tư các công trình cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Hiện nay, các xóm đã được xây dựng bể công cộng các loại, các nhà riêng cũng có các loại: Lu, bể vuông, có bể từ 1 - 5 khối để tích trữ nước mùa mưa.

Hồ nước tập trung vùng biên giới Cao Bằng, đã cứu giúp người dân vào những tháng mùa khô hạn

Hồ nước tập trung vùng biên giới Cao Bằng, đã cứu giúp người dân vào những tháng mùa khô hạn

Ông Lưu Trọng Hính, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hà Quảng thông tin: Các xã Lục Khu mới được xác nhập còn 7 xã, trong đó có 3 xã giáp biên giới với Trung Quốc, nhiều năm qua thường xuyên thiếu nước sinh hoạt.

Từ năm 2011 đến nay, vùng Lục Khu được đầu tư gần 140 tỷ đồng xây dựng 14 hồ vải địa, với dung tích hơn 36.700 m3; gần 200 bể chứa nước các loại với dung tích trên 25.000 m3 (bể xây đá và bể bê tông cốt thép có dung tích từ 50 - 300 m3/bể. Nhờ đó, bảo đảm nước sinh hoạt cho hơn 7.000 hộ dân vùng Lục Khu, với tỷ lệ 45 - 50 lít/người/ngày.

Nhiều năm trước đây, người dân xóm Thông Thá, xã Ngọc Động, huyện biên giới Quảng Hòa thiếu nước sinh hoạt nhiều tháng khi vào mùa khô. Người dân phải đi gánh nước ở các mỏ nước tự chảy cách xa nhà. Từ hơn 10 năm trở về đây, huyện đầu tư công trình nước sinh hoạt tập trung sử dụng máy bơm điện, lắp công tơ cho từng gia đình nên người dân không còn lo thiếu nước sinh hoạt.ời

Chị Vi Thị Huệ, xóm Thông Thá, xã Ngọc Động chia sẻ: Khi công trình đi vào hoạt động, xóm đã thành lập tổ tự quản để bảo vệ công trình. Mỗi hộ sẽ nộp tiền sử dụng nước hàng tháng theo số khối sử dụng, để cho vào quỹ chung, dùng cho việc sửa chữa công trình, máy bơm, đường ống. Hiện nay, mỗi ngày máy bơm nước hai lần nên thoải mái sử dụng.

Đến hết năm 2019, toàn tỉnh Cao Bằng có 895 công trình cấp nước tập trung; tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90%; 28,7% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn của Bộ Y tế; tỷ lệ thất thoát nước sạch dưới 20%. Năm 2020, tỉnh đang triển khai 13 công trình cấp nước tập trung với tổng mức đầu tư hơn 40 tỷ đồng…

Ông Bế Nhật Thành, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn khẳng định: Những năm qua, tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh ngày càng cao; tình trạng thiếu nước sinh hoạt ở vùng cao dần được cải thiện, số tháng thiếu nước vào mùa khô giảm rõ rệt. Từ khi có các công trình cấp nước, tập quán sinh hoạt của nhiều gia đình đã thay đổi hoàn toàn, người dân địa phương hạn chế sử dụng nước sông, suối không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh.

Tuy nhiên, các nguồn vốn đầu tư làm công trình nước tập trung còn nhỏ lẻ nên hiệu quả chưa cao. Mặt khác, đời sống của đồng bào vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, không có kinh phí để bắt đường ống dẫn nước vào sử dụng.

Cán bộ xã Ngọc Động đang hướng dẫn bà con cách bảo quản, duy tu đường nước sạch tự chảy. 

Cán bộ xã Ngọc Động đang hướng dẫn bà con cách bảo quản, duy tu đường nước sạch tự chảy. 

Chính vì vậy, ở một số vùng, mặc dù đã được lắp đặt bể nước tập trung, hệ thống ống dẫn nước về nhưng do không có đường ống nhánh nên người dân vẫn không có nước sạch để sử dụng, ông Thành cho biết thêm.

Thời gian tới, để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu nước sinh hoạt cho người dân, nhất là người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, tỉnh Cao Bằng mong tiếp tục được bố trí nhiều nguồn vốn từ các chương trình để đầu tư thêm các công trình cấp nước tập trung.

Tiến tới mục tiêu năm 2025, tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95%; 65% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn của Bộ Y tế.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm