| Hotline: 0983.970.780

Cây trồng chịu điều kiện khắc nghiệt

Thứ Tư 30/11/2011 , 11:12 (GMT+7)

I- Bài toán gốc ghép cho vùng ngập mặn

Theo các nhà khoa học thì Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu. Ngành nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, rất khó đối phó và khắc phục trong một thời gian ngắn.

Đứng trước vấn đề đất bị nhiễm mặn đang gia tăng diện tích hằng năm ở Nam bộ, gần đây các Viện, Trường đã bắt tay vào nghiên cứu các loại cây trồng chống chịu được mặn trên những vùng đất này. Theo đó, việc thanh lọc gốc ghép chịu mặn đối với cây trồng đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia có đất bị nhiễm mặn. Xuất phát từ tình hình thực tế, từ năm 1999 - 2000 Viện NC cây ăn quả miền Nam (SOFRI) đã bắt đầu có những nghiên cứu về thu thập và thanh lọc những dòng/giống cây có múi địa phương chống chịu được những điều kiện bất lợi của môi trường như: mặn, ngập và hạn để làm gốc ghép cho những giống thương phẩm.

Viện NC cây ăn quả miền Nam đã triển khai 2 đề tài trọng điểm cấp Bộ là: Nghiên cứu đánh giá và lựa chọn một số tổ hợp ghép thích hợp của cây có múi và xoài trong điều kiện mặn và ngập ở vùng ĐBSCL và Đề tài nghiên cứu chọn lọc gốc ghép cây có múi chống chịu điều kiện hạn và phèn ở vùng ĐBSCL. Theo đó, hơn 30 dòng/giống cây có múi được thu thập từ một số tỉnh ở ĐBSCL, miền Đông Nam bộ và Huế cùng với hai gốc ghép nhập nội là Cleopatra mandarin, Carizo citrange.

Thí nghiệm thanh lọc mặn tiến hành theo phương pháp của Sykes (1985) ở C.S.I.R.O., Merbein, Úc. Hàng ngày tưới mặn với nồng độ muối như trên, thời gian tưới mặn là 30 phút/ngày, liên tục trong 60 ngày thì kết thúc qui trình xử lý mặn. Kết quả các giống bưởi Bồng, bưởi đường hồng, bưởi Bung và bưởi Sảnh có khả năng chống chịu mặn ở nồng độ 8%o trong thời gian 60 ngày. Công tác nghiên cứu tiếp đánh giá khả năng tiếp hợp của các gốc ghép chống chịu mặn với các giống cây có múi thương phẩm nhằm mục đích loại bỏ những tổ hợp ghép không tương hợp vì chúng sẽ cho sinh trưởng, phát triển kém và tuổi thọ giảm sau khi trồng. Ngoài ra, Viện đã sử dụng phương pháp ghép trao đổi vòng vỏ giữa cây gốc ghép và cây mắt ghép trong điều kiện nhà lưới thì có thể sàng lọc một lượng lớn gốc ghép và chỉ cần 12 tháng là có thể cho kết quả tương tự ngoài đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy 5 dòng/giống cây múi chịu mặn đã tiếp hợp tốt với các giống bưởi thương phẩm là bưởi da xanh và bưởi Năm Roi. Các giống cây có múi chịu mặn được chọn lọc làm gốc ghép là các giống bưởi địa phương nên tất cả là đơn phôi, do đó nếu sử dụng hạt các giống này để làm gốc ghép thì cây con có thể không mang được những đặc tính của cây mẹ. Vì vậy thí nghiệm được thực hiện để xác định “Ảnh hưởng của các nồng độ NAA đến sự ra rễ và sinh trưởng cành giâm của các giống cây múi làm gốc ghép”.

Kết quả thí nghiệm cho thấy, sử dụng NAA ở nồng độ 1.500 ppm (phần triệu) đã giúp cành giâm của 5 giống bưởi có tỷ lệ cành ra rễ đạt trên 70%. Hai mô hình các tổ hợp ghép chịu mặn đã được trồng tại 2 tỉnh Tiền Giang và Bến Tre từ năm 2008 - 2009 nhằm chọn ra được tổ hợp ghép tốt nhất cho sinh trưởng, năng suất và phẩm chất quả trong điều kiện mặn của vùng ĐBSCL. Kết quả bước đầu cho thấy các tổ hợp ghép cây có múi đều sinh trưởng và phát triển tốt và chống chịu được độ mặn trên 8%o trong điều kiện thực tế của đợt mặn 2009 - 2010, trong đó nổi bật là tổ hợp bưởi da xanh ghép trên gốc ghép Sảnh có sức sinh trưởng mạnh nhất.

Song song đó, Viện NC cây ăn quả miền Nam cũng đã tiến hành nghiên cứu thanh lọc mặn trên 8 giống xoài địa phương và nhập nội: Xoài Canh Nông, xoài Châu Hạng Võ, xoài cát Hoà Lộc, xoài cát Chu, xoài 13-1, xoài ghép xanh, xoài Thanh Ca, xoài thơm. Qua kết quả khảo nghiệm trong điều kiện nhà lưới và ngoài đồng (Bình Đại - Bến Tre), cho thấy 3 tổ hợp ghép xoài 13-1, xoài Châu Hạng Võ và xoài ghép xanh ghép trên mắt ghép xoài cát Hòa Lộc và xoài cát Chu chống chịu mặn tốt ở nồng độ mặn 13%o.

Biến đổi khí hậu cũng gây hiện tượng khô hạn kéo dài, dẫn đến thiếu nước tưới trầm trọng cho cây trồng nói chung và cây ăn quả nói riêng. Trước tình hình đó, Viện đã tiến hành thanh lọc hơn 30 dòng/giống cây có múi địa phương để tìm ra được loại gốc ghép chống chịu hạn. Kết quả bước đầu cho thấy bưởi Thanh Trà, bưởi Biên Hòa, bưởi Trúc là những giống chống hạn tốt trong điều kiện thí nghiệm. Các mô hình tổ hợp ghép cây có múi chịu hạn cũng đã được trồng ngoài đồng tại Tiền Giang và An Giang để đánh giá mức độ chịu hạn trong điều kiện thực tế. Song song công tác chọn lọc các dòng/giống cây có múi trong quần thể tự nhiên để làm gốc ghép thì công tác lai tạo để chọn lọc được dòng chống chịu mặn cũng đã và đang được thực hiện tại Viện NC cây ăn quả miền Nam. Kết quả bước đầu đã lai tạo được hơn 10 con lai có khả năng chống chịu được mặn ở nồng độ 8%o. Các công việc nghiên cứu tiếp theo đang được triển khai.

Biến đổi khí hậu đã có những tác động tiêu cực đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và cây ăn quả nói riêng. Viện NC cây ăn quả miền Nam đã có những kết quả nghiên cứu bước đầu trong việc chọn tạo dòng/giống cây ăn quả chống chịu những điều kiện bất lợi của môi trường mặn và hạn ở khu vực ĐBSCL.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm