| Hotline: 0983.970.780

Chỉ thị nâng tầm tài nguyên rừng Nghệ An

Thứ Năm 28/03/2024 , 14:53 (GMT+7)

Nhiều nút thắt xoay quanh công tác quản lý, phát triển rừng tại Nghệ An đã tìm được lời giải, kết quả có được bắt nguồn từ Chỉ thị số 10-CT/TU.

Chỉ thị số 10-CT/TU lan tỏa giúp giảm tải áp lực cho các bên liên quan, đồng thời phát huy rõ rệt giá trị vốn rừng của Nghệ An. Ảnh: Khôi An. 

Chỉ thị số 10-CT/TU lan tỏa giúp giảm tải áp lực cho các bên liên quan, đồng thời phát huy rõ rệt giá trị vốn rừng của Nghệ An. Ảnh: Khôi An. 

Tính cấp thiết

Chiều 27/3, Sở NN-PTNT Nghệ An tổ chức Hội nghị sơ kết thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 05/10/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng thâm canh chất lượng cao gắn với cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững và công nghiệp chế biến lâm sản giai đoạn 2021 – 2025. Hội nghị cũng tổng kết ngành lâm nghiệp năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024.

Theo ghi nhận, phương án phát triển lâm nghiệp tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng chính phủ phê duyệt thể hiện địa phương này sở hữu diện tích rừng và đất lâm nghiệp thuộc tốp đầu cả nước.

Theo kết quả cập nhật diễn biến rừng năm 2023, diện tích đất có rừng của Nghệ An là 961.774 ha, độ che phủ rừng đạt 58,33%, trữ lượng gỗ đạt 91,535 triệu m3, chưa kể 505 triệu cây tre nứa các loại cùng nhiều loài cây dược liệu quý.

Ông Phùng Thành Vinh, Giám đốc Sở NN-PTNT thông tin: Thời gian qua công tác quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, chế biến và thương mại lâm sản trên địa bàn đạt được nhiều kết quả tích cực, chủ trương xã hội hóa nghề rừng được hiện thực hóa. Điều này góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện sinh kế cho người dân, qua đó thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh, đồng thời ứng phó hiệu quả với biển đổi khí hậu, đảm bảo quốc phòng- an ninh.

Tháo gỡ nút thắt cho ngành lâm nghiệp, tạo động lực để những chủ thể tiếp tục gắn bó với rừng là những nội dung mang tính bước ngoặt. Ảnh: Khôi An. 

Tháo gỡ nút thắt cho ngành lâm nghiệp, tạo động lực để những chủ thể tiếp tục gắn bó với rừng là những nội dung mang tính bước ngoặt. Ảnh: Khôi An. 

Bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế, điển hình như việc phát triển nguyên liệu rừng trồng thâm canh chất lượng cao gắn với cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững và phát triển công nghiệp chế biến lâm sản còn chậm; năng suất chất lượng giá trị rừng trồng còn thấp; ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao còn hạn chế; thiếu liên kết trong trồng, chế biến và tiêu thụ lâm sản.

Để khắc phục, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 05/10/2021 về đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng thâm canh chất lượng cao gắn với cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững và công nghiệp chế biến lâm sản giai đoạn 2021 – 2025.

Bệ phóng

Qua 2 năm triển khai Chỉ thị số 10-CT/TU, Nghệ An đã gặt hái được nhiều tín hiệu tích cực, bức tranh lâm nghiệp có nhiều khởi sắc mang tính căn cơ. Chỉ thị sớm hòa vào nhịp đập đã tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan, cán bộ, đảng viên và người dân.

Điều này được thể hiện qua chỉ số trồng rừng tập trung 62.725 ha /55.000 ha KH, đạt 114%; khai thác gỗ rừng trồng 4.912.118 m3/4.605.000 m3, đạt 106% KH; tốc độ tăng trường giá trị sản xuất lâm nghiệp giai đoạn 2021-2023 đạt bình quân 7,86%; kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ giai đoạn 2021-2023 đạt 781 triệu USD.

Không dừng lại ở đó, hiện Nghệ An hiện có hơn 32.000 ha rừng trồng gỗ lớn, chiếm 20% rừng trồng của cả tỉnh. Với lộ trình bài bản, mục tiêu nâng quy mô gỗ lớn, rừng trồng thâm canh chiếm 30% vào năm 2025 hoàn toàn có thể đạt được. Chưa hết, Nghệ An có quyền tự hào với 24.826 ha được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, đạt 50% mục tiêu đề ra.

Sản phẩm từ gỗ của Nghệ An ngày càng được thị trường ưa chuộng. Ảnh: Việt Khánh.

Sản phẩm từ gỗ của Nghệ An ngày càng được thị trường ưa chuộng. Ảnh: Việt Khánh.

Ngoài ra, toàn bộ diện tích rừng của các Ban quản lý rừng đặc dụng, Ban quản lý rừng phòng hộ và các chủ rừng là tổ chức thuộc các thành phần kinh tế đã được phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững (585.423 ha/585.423 ha, đạt 100%). Đây được xem là cơ sở pháp lý quan trọng để giảm tải áp lực bảo vệ, đồng thời nâng cao giá trị đa dụng của rừng trong xu thế mới.

Nhắc đến lâm nghiệp Nghệ An không thể bỏ qua Khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao vùng Bắc Trung Bộ. Nhờ sự quan tâm, định hướng của Trung ương, của các Bộ, ngành liên quan, kết hợp với sự nhập cuộc nghiêm túc của tỉnh, Khu lâm nghiệp đang từng bước hình thành. Dự kiến khi đi vào hoạt động là “thỏi nam châm” hút các doanh nghiệp lớn mạnh tham gia đầu tư, qua đó tạo nên bước đột phá cho địa phương và toàn vùng.

Ở chiều ngược lại, rừng Nghệ An dẫu lớn nhưng diện tích rừng sản xuất phân bổ manh mún, nhỏ lẻ, mỗi gia đình chỉ sở hữu 1 – 2 ha, tựu chung rất khó để áp trồng rừng gỗ lớn hay ứng dụng công nghệ cao. Thêm nữa, đời sống của số đông đồng bào dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn, phần đa thiếu vốn đầu tư, thiếu kiến thức kỹ thuật, chưa có ý thức đầu tư thâm canh, do đó nghiêng về trồng rừng chu kỳ ngắn, đồng nghĩa năng suất, chất lượng không cao.

Xem thêm
Gần 6.400 hộ dân huyện Trạm Tấu ký cam kết bảo vệ rừng

YÊN BÁI Các vụ cháy rừng ở Trạm Tấu chủ yếu do bất cẩn của người dân khi xử lý thực bì bằng lửa, vì vậy việc đốt nương làm rẫy đang được quản lý chặt chẽ.

Trồng 33.000 cây xanh tại Vườn quốc gia Xuân Sơn

Các đơn vị trồng mới 33.000 cây, trong đó 3.000 cây bản địa (cây mỡ) và 30.000 cây keo tại vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn.

Cứu hộ thành công cá thể gấu ngựa bị cụt chi trước

HÀ NỘI Từ đầu năm 2024 đến nay, Chi cục Kiểm lâm thành phố Hà Nội đã bàn giao 5 cá thể gấu cho Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam.

Đặc sắc lễ cúng thần rừng của người Mông Nà Hẩu

Lễ cúng thần rừng là nghi lễ độc đáo được người Mông ở xã Nà Hẩu tổ chức vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hàng năm.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm