| Hotline: 0983.970.780

Dấu ấn NTM: 3 năm khởi đầu thành công

Thứ Ba 06/05/2014 , 06:47 (GMT+7)

Sau 3 năm triển khai thực hiện, Chương trình xây dựng NTM đã bước đầu đạt được những thành tựu và đem lại hiệu quả thiết thực cho người dân.

Chương trình đã trở thành một phong trào sôi nổi trên khắp cả nước, bộ mặt nông thôn ở nhiều nơi được đổi thay, cơ sở hạ tầng thiết yếu được nâng cấp, hệ thống chính trị cơ sở tiếp tục được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng ở các vùng nông thôn được nâng cao hơn…

Nhiều cách làm hay, sáng tạo

Nhìn chung, từ khi bắt đầu triển khai Chương trình NTM đến nay, các địa phương vẫn ưu tiên dành nhiều nguồn lực cho xây dựng hạ tầng, coi đây là yếu tố quan trọng nhất để cải tạo bộ mặt nông thôn, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá - an ninh và đặc biệt là tăng hưởng thụ trực tiếp của người dân.

Vì vậy, chương trình được tuyệt đại đa số người dân đồng thuận. Ở nhiều nơi đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm hay: chính sách hỗ trợ xi măng để nhân dân làm đường của tỉnh Ninh Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Bắc Giang…. Hoặc như các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Nam áp dụng mô hình PPP, tức là Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho công trình đầu mối, còn DN tư nhân bỏ tiền đầu tư và được thu phí.

Mỗi khi có cách làm hay các tỉnh lại học tập kinh nghiệm lẫn nhau và đã có 30 tỉnh, thành phố tham quan và tổ chức hội nghị chuyên đề để rút kinh nghiệm về cách thực hiện các tiêu chí của nhóm cơ sở hạ tầng.

Nổi bật trong thời gian qua là các tỉnh đều áp dụng chính sách hỗ trợ xi măng, cống (chiếm khoảng 50% kinh phí xây dựng), cộng đồng dân cư hiến đất, giải phóng mặt bằng, góp tiền, công lao động và vật liệu khác nên đã thúc đẩy tiến độ phát triển giao thông nhanh hơn trước.

Sau 3 năm thực hiện chương trình, đã có 11% số xã đạt tiêu chí đường GTNT; 31,2% số xã đạt tiêu chí về thủy lợi. Về điện, từ năm 2010 - 2013, nguồn vốn huy động đầu tư cải tạo và xây mới hệ thống điện nông thôn khoảng 15.000 tỷ đồng đã có 5.964 xã (66,2%) đạt chuẩn tiêu chí số 4 về điện.

Thực hiện xây dựng NTM, các tỉnh đã thúc đẩy dồn điền, đổi thửa, thiết kế lại đồng ruộng, nhất là giao thông, thủy lợi tạo điều kiện thuận lợi đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng đồng thời có chính sách hỗ trợ dân mua máy cày, gặt, sấy, đưa tỷ lệ cơ giới hóa các khâu này tăng vọt từ 40-50% lên 80-90%.

Cùng với chính sách phát triển hạ tầng SX, dồn điền đổi thửa, cơ giới hóa nông nghiệp, các mô hình phát triển kinh tế mới cũng lần lượt xuất hiện: Mô hình Cánh đồng mẫu lớn gắn kết nông dân SX nguyên liệu với nhà máy chế biến và DN thương mại được 43 tỉnh thành trên cả nước nghiên cứu áp dụng.

Riêng vùng ĐBSCL vụ Đông Xuân năm 2013 - 2014, toàn vùng đã mở rộng diện tích cánh đồng lớn lên đến 100.000 ha, nhiều nhất tại An Giang (35.000 ha), Cần Thơ (14.228 ha)... Bình quân mỗi Cánh đồng mẫu lớn tại ĐBSCL có diện tích từ 300 - 1.000 ha, phù hợp với điều kiện về hạ tầng, liền canh, thuận tiện trong canh tác, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến đồng loạt, thu mua, vận chuyển lúa hàng hóa.


Cánh đồng lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao

Những nội dung, phương pháp xây dựng NTM được các Chi bộ quán triệt trong đảng viên trong các buổi sinh hoạt. Từ các buổi sinh hoạt Chi bộ này, đã có những cách làm hay, những sáng tạo được vận dụng
vào thực tiễn.

Điển hình như Quảng Ninh, Thái Bình, Tuyên Quang, Hà Giang, Hà Tĩnh, An Giang…, xã nào cũng phân công cán bộ lãnh đạo, các đoàn thể phụ trách một số nội dung cụ thể trong đề án xây dựng NTM. Ví dụ: Hội Nông dân đảm nhận việc vận động cải tạo vườn tạp; Đoàn Thanh niên đảm trách vệ sinh môi trường; Hội Cựu chiến binh có trách nhiệm đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.

Tại một số tỉnh, thành phố lại phát triển mô hình SXNN gắn với du lịch ở nông thôn (xã Yên Đức, huyện Đông Triều, Quảng Ninh; xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang…), hằng năm đã thu hút được hàng trăm ngàn lượt khách du lịch; một số tỉnh đang xúc tiến xây dựng làng sinh thái, làng cổ truyền thống gắn với du lịch để tạo hấp dẫn thu hút DN cho địa bàn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người dân.

Khu vực TP. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng thì triển khai mạnh các mô hình SX ứng dụng công nghệ cao và có chính sách hỗ trợ lãi suất cho người dân vay SX. Do đó, nhiều hộ nông dân, trang trại đã áp dụng; đã có hàng trăm mô hình có hiệu quả.

Tỉnh Lâm Đồng có 10.000 ha (11%) diện tích đất có mức thu nhập từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng/ha/năm. Tính đến nay, trên cả nước đã có khoảng trên 9.000 mô hình SX với tổng vốn ngân sách hỗ trợ khoảng 8.400 tỷ đồng đem lại năng suất thu nhập cao hơn trước từ 15 - 40%, hiệu quả là thu nhập của cư dân nông thôn năm 2013 tăng bình quân gấp 1,8 lần năm 2010.

Sức mạnh đồng thuận

Thực tiễn sau 3 năm triển khai thực hiện xây dựng NTM cho thấy, xã điểm nào ngay từ đầu đã tổ chức tốt việc tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho người dân, cán bộ xã thông hiểu, tạo cách làm để người dân thực sự đóng vai trò chủ thể thì đều tạo ra được sự đồng thuận cao và huy động được hệ thống chính trị vào cuộc, có nhiều sáng tạo trong huy động nguồn lực thì đều đạt kết quả cao trong thực hiện các tiêu chí.

Khi triển khai xây dựng NTM, các xã đều thiếu vốn và tổng vốn ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương dành cho Chương trình trong 3 năm qua (2011 - 2013) chỉ xấp xỉ 35.500 tỷ đồng, đạt khoảng 34% so với tổng mức đầu tư.

Tuy nhiên, do Chương trình NTM mang lại lợi ích thiết thực cho người dân nên đã tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân trên cả nước và huy động được sự tham gia của vốn ngoài ngân sách khiến nguồn lực đầu tư cho Chương trình NTM trong 3 năm qua nâng lên tới 105 ngàn tỷ đồng.

Việc huy động nguồn lực trong dân được thực hiện theo nhiều hình thức: đóng góp trực tiếp bằng công sức, tiền của vào các công trình đường, trường, trạm; thu hút đầu tư, hợp tác với các DN, vay vốn tín dụng từ các ngân hàng để đầu tư vào phát triển SX kinh doanh, cải tạo nâng cấp nơi ở, công trình vệ sinh, cải tạo vườn, ao, sửa sang vườn rào, cổng ngõ để có cảnh quan và môi trường sạch đẹp...

Và bài học kinh nghiệm để tạo được sự đồng thuận trong nhân dân là phải ưu tiên tập trung giải quyết những nội dung cần thiết nhất và có cơ chế để người dân làm chủ. Các công trình công cộng phải được người dân bàn bạc dân chủ và thống nhất, có giám sát cộng đồng, đảm bảo công khai, minh bạch.

+ Xây dựng NTM phải dựa theo Bộ tiêu chí để định hướng hành động và lấy tiêu chí làm thước đo để đánh giá kết quả.
Tuy nhiên, trong xây dựng đề án và chỉ đạo thực hiện, mỗi địa phương phải căn cứ vào đặc điểm, lợi thế và nhu cầu thiết thực của người dân để lựa chọn nội dung nào làm trước, nội dung nào làm sau, mức độ đến đâu cho phù hợp như TP. Hà Nội gắn xây dựng cơ sở hạ tầng với dồn điền đổi thửa; Tuyên Quang gắn việc kiên cố hoá đường giao thông với bố trí dân cư; Hà Tĩnh đẩy mạnh phát triển SX gắn với tái cấu trúc ngành nông nghiệp.

+ Nhiều địa phương đã thực hiện xã hội hóa trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, cả nước đã có gần 60 nghìn nhà văn hóa ở các khu dân cư, có trên 1,3 triệu "Người tốt, việc tốt" được biểu dương ở các cấp; 16 triệu gia đình đạt chuẩn danh hiệu “Gia đình văn hóa” và hơn 65 nghìn khu dân cư đạt danh hiệu “Khu dân cư văn hóa”.

 

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm