| Hotline: 0983.970.780

Đầu Trâu tăng trưởng, chắc hạt cho cà phê

Thứ Sáu 12/06/2015 , 06:08 (GMT+7)

Nhiều năm qua, các chủng loại phân bón Đầu Trâu được nông dân các tỉnh Tây Nguyên sử dụng phổ biến cho nương cà phê của họ và đã thu được hiệu quả đầy ấn tượng…

Nhóm phân cà phê Đầu Trâu phổ biến bao gồm: Vào mùa khô giúp cây ra nụ thuận lợi, đạt chỉ số C/N thích hợp đã có Cà phê mùa khô (NPK 20-5-6).

 Khi vào mùa mưa cần cho trái cà phê tăng trưởng nhanh, giảm tỷ lệ rụng đã có cà phê Đầu Trâu TE + Agrotain (18-16-8+TE), hoặc Đầu Trâu 16-16-13+TE, theo sau để làm cho cà phê chắc hạt đã có Đầu Trâu 16-8-16+TE.

Bộ sản phẩm này nhiều năm qua đã đồng hành với bà con trồng cà phê, vì vừa đem lại năng suất cao, mà hiệu quả kinh tế cũng rất thuyết phục.

Không thỏa mãn với các thành tích đã đạt được, Cty CP Phân bón Bình Điền còn muốn tạo thêm tính đa dạng về sản phẩm để bà con tiện đường lựa chọn.

Đất trồng cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên rất đa dạng, mà khí hậu ngày một biến đổi rất phức tạp, vì vậy Bình Điền đã SX thêm các chủng loại phân đa năng, vừa phục vụ tốt cho cà phê, vừa có thể sử dụng tốt cho cả các loại cây lấy hạt khác, đó là Đầu Trâu tăng trưởng (NPK 19-12-6+TE) và Đầu Trâu chắc hạt (16-6-19+TE).

Ta có thể hiểu đơn giản rằng cây cà phê khi bước vào thời kỳ kinh doanh, hàng năm cũng phải trải qua 2 giai đoạn sinh trưởng chính, đó là thời kỳ tạo cành mới, tích lũy đủ chất dinh dưỡng để ra nụ, ra hoa, và tăng trưởng trái; tiếp đến là thời kỳ vận chuyển chất để làm trái được no tròn cho đến khi chín.

Thời kỳ tích lũy dinh dưỡng bắt đầu từ cuối mùa mưa năm trước, và tăng mạnh trong các tháng đầu mùa khô cho đến đầu mùa mưa năm sau.

Khác với các cây ăn trái, ở cây cà phê, trong thời kỳ mang trái và tăng trưởng khối lượng trái, đồng thời cũng tiếp tục đâm cành, ra lá, tạo cành dự trữ cho ra hoa kết trái vụ sau.

Nghĩa là quá trình sinh trưởng dinh dưỡng (ra cành, lá) và thời kỳ sinh trưởng sinh thực (ra hoa, kết trái và tăng trọng lượng trái) cùng song song tồn tại.

Vì vậy, việc cung cấp dinh dưỡng cho thời kỳ ra hoa kết trái cũng cần chú ý đến các chất cần cho đâm cành, ra lá.

Chính vì vậy, thời kỳ này cây cần tỷ lệ NPK cũng như các chất trung và vi lượng khác nhau hợp lý để thỏa mãn cả hoa, quả và cành non phát triển. Do đó, việc cung cấp 2 chủng loại phân này sẽ rất phù hợp.

Để bà con làm quen với 2 chủng loại phân này, Trung tâm Khuyến nông Đăk Lăk đã tiến hành khảo nghiệm dưới dạng trình diễn tại 6 địa điểm khác nhau, gồm TP Buôn Ma Thuột, các huyện CưKuin, Krông Păk, CưMgar, Krông Năng và EaHleo.

Ở mỗi địa điểm, có 4 công thức bón phân Đầu Trâu so sánh giữa NPK Đầu Trâu 16-16-8+TE với Đầu Trâu tăng trưởng (đầu mùa mưa) và bón NPK 16-16-13+TE cũng như 16-8-16-13S+TE so với Đầu Trâu chắc hạt (giữa mùa mưa), còn cuối mùa mưa, các công thức đều sử dụng Đầu Trâu chắc hạt.

Ở mỗi địa điểm, nông dân sử dụng kỹ thuật bón phối hợp phân đơn với phân NPK để làm đối chứng. Các biện pháp kỹ thuật khác đều xử lý đồng đều như nhau.

Kết quả thu được ở cả 6 điểm khảo nghiệm đều cho thấy: Các công thức chỉ bón 2 chủng loại phân này cho cả 3 đợt, so với các công thức 2 đợt đầu vẫn dùng phân Đầu Trâu mùa mưa thì cũng đều có kết quả tương tự nhau, và đều làm cho chiều dài cành dự trữ của cà phê dài hơn nền phân đối chứng (4,45 cm), số quả trên chùm cũng nhiều hơn (2,43 quả), trọng lượng của 100 nhân cũng nặng hơn đối chứng (1,225 gr).

Bằng chứng này đều biểu hiện rất rõ ở cả 6 địa điểm khảo nghiệm. Điều đó dẫn đến năng suất khô của cà phê nhân cũng tăng hơn đối chứng từ 360 - 490 kg/ha (bình quân 440 kg/ha).

Khảo nghiệm cũng chứng minh rằng, nếu sử dụng phân Đầu Trâu cho cà phê vừa đơn giản vừa tiết kiệm được phân, mang lại hiệu quả cao hơn so với quy trình của nhiều nông dân đang sử sụng.

Ví dụ, tại điểm trình diễn ở huyện CưKuin, nông dân Hoàng Kim Trúc bón 50 kg ure, 50 kg SA, 25 kg kali, 75 kg NPK Đầu Trâu đa năng, cộng thêm 75 kg NPK của Philippines 16-8-16-13S cho 1.000 m2.

Số phân này tính ra nguyên chất, tương đương với 577,5 kg N + 250 kg P205 + 322 kg K20/ha so với nền bón phân Đầu Trâu là 338 kg N + 156 kg P205 + 302 kg K20/ha, thì nền phân của nông dân đã bón cao hơn 332 kg N, tương đương với 722 kg ure và 588 kg lân.

 Nhưng năng suất cà phê nhân thu được vẫn thấp hơn nền phân Đầu Trâu là 100 kg/ha, chưa kể tiền phân và chi phí vận chuyển, công bón cao hơn.

Tâm lý chung của nhiều bà con nông dân là sợ bón NPK không đủ chất cho cà phê, nên vừa NPK vừa phải bón phân đơn.

Theo quy trình bón phân Đầu Trâu đã được sử dụng rộng rãi hiện nay thì, trong mùa khô chỉ cần bón 1 đến 2 đợt phân Đầu Trâu cà phê mùa khô với liều 40 - 50 kg/1.000 m2 kết hợp lúc tưới lần đầu và có thể bón đợt 2 trong tháng 3 hay đầu tháng 4.

Trong suốt mùa mưa chỉ cần bón 3 đợt phân: (I) đầu mùa mưa, (II) giữa mùa mưa và (III) cuối mùa mưa là đủ. Đầu mùa mưa bón khoảng 60 - 70 kg phân Đầu Trâu tăng trưởng/1.000 m2, giữa mùa mưa bón 70 - 75 kg Đầu Trâu chắc hạt và cuối mùa mưa bón 70 kg Đầu Trâu chắc hạt.

Với quy trình bón phân này, trong những năm bình thường, chắc chắn sẽ đạt năng suất 4,5 - 5 tấn cà phê nhân/ha.

Công thức

Đầu mùa mưa

Giữa mùa mưa

Cuối mùa mưa

Kg/

1.000m2

1

70kg NPK16-16-8 +TE 70

kg ĐT chắc hạt 70

kg ĐT chắc hạt      210

210

2

60 kg ĐT tăng   trưởng

70 kg ĐT chắc hạt

70 kg ĐT chắc hạt

200

3

60 kg ĐT tăng   trưởng

75kgNPK 16.16.13 +TE

70 kg ĐT chắc hạt

205

4

60 kg ĐT tăng  trưởng

75 kg NPK 16-8-16-13S+TE 70

kg ĐT chắc hạt      205

205

Lượng phân bón của nông dân tại thôn 1, xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin (Đăk Lăk)

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm