| Hotline: 0983.970.780

Dè dặt thả giống

Thứ Sáu 01/03/2013 , 10:31 (GMT+7)

Đang là thời điểm xuống giống vụ nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL, tuy nhiên do lo ngại tình hình dịch bệnh, nhiều nơi chỉ thả nuôi cầm chừng để theo dõi tình hình.

Đang là thời điểm xuống giống vụ nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL, tuy nhiên do lo ngại tình hình dịch bệnh, nhiều nơi chỉ thả nuôi cầm chừng để theo dõi tình hình. Nếu thuận lợi mới tiến hành thả đồng loạt.

Năm nay, tỉnh Kiên Giang có kế hoạch thả nuôi 1.600 ha tôm công nghiệp, chủ yếu ở khu nuôi trồng thủy sản tập trung Hà Tiên - Kiên Lương. Mặc dù đã vào vụ nuôi chính nhưng đến thời điểm này các đơn vị và người dân mới thả nuôi được 390 ha tôm công nghiệp, trong đó có 330 ha tôm thẻ chân trắng.

Theo các hộ nuôi tôm, do vụ nuôi năm rồi dịch bệnh trên tôm diễn biến rất phức tạp, tôm bị hội chứng hoại tử gan tụy dẫn đến chết hàng loạt nhưng không xác định được nguyên nhân nên họ rất lo lắng. Ông Nguyễn Danh Hiện, GĐ Cty TNHN Thủy sản Minh Phú (Kiên Giang) cho biết, Cty đã quy hoạch diện tích thả nuôi lên đến 500 ao (5.000 - 6.000 m2/ao). Do dịch bệnh quá nhiều, càng thả càng lỗ nên vụ này Cty mới chỉ thả giống nuôi thử 6 ao để kiểm tra tình hình. Nếu tôm phát triển tốt, không bị dịch bệnh thì mới thả nuôi tiếp khoảng 100 ao. Sau vụ đầu thành công thì mới tiến hành thả nuôi toàn bộ diện tích.

Không chỉ những đơn vị có diện tích lớn thả nuôi cầm chừng mà ngay cả nông dân có 1 - 2 ha cũng rất dè dặt khi thả giống. Ông Nguyễn Văn Đức ở xã Hòa Điền, Kiên Lương có 1,5 ha nuôi tôm công nghiệp đang rất lưỡng lự có nên thả giống hay chưa dù ao nuôi đã được xử lý xong.


Nhiều vùng nuôi tôm ở Hà Tiên - Kiên Lương chưa dám thả giống do lo ngại dịch bệnh và độ mặn còn thấp

Ông Đức cho biết: “Mọi năm giờ này tôi đã thả nuôi được gần 1 tháng, nhưng năm nay vẫn chưa dám. Nếu thời tiết thuận lợi thì vài ngày nữa sẽ đi bắt giống về thả, nhưng cũng chỉ nuôi với mật độ thưa cho ăn chắc. Lỡ có thất bại thì lỗ cũng ít, còn vốn để tái đầu tư”.

Ngoài chuyện lo ngại dịch bệnh, một số nơi nước mặn về khá yếu nên nông dân khó lấy được nước. Ông Nguyễn Danh Hiện cho biết, do hệ thống thủy lợi trong khu vực này vẫn sử dụng chung với SXNN nên các cống ven biển thường được ngành chức năng cho đóng lại nhằm giữ ngọt. Vì vậy, người nuôi tôm ở đây chỉ có thể lấy nước mặn được 1 lần trong năm.

Nếu muốn nuôi vụ sau thì buộc phải tái sử dụng lại nước từ vụ nuôi trước. Do đó, khi dịch bệnh xảy ra thì không có nước để thả nuôi nữa. Thông thường thời gian lấy nước ở đây là từ tháng 1 đến tháng 6, nhưng năm nay mãi gần giữa tháng 2 mới có nước mặn vào.

Ông Vương Minh Mẫn, Trưởng phòng Kinh tế huyện Kiên Lương cho biết, toàn huyện mới chỉ thả được 300/850 ha tôm công nghiệp, phải đợi tới khoảng tháng 4 - 5 người dân mới mạnh dạn thả nuôi nhiều. Còn về tình hình thiếu nước mặn, theo ông Mẫn là do địa phương phải hạn chế mở các cống, sợ nước biển lấn sâu vào đất liền gây ảnh hưởng lớn đến việc SX lúa của nông dân.

PGĐ Sở NN-PTNT Kiên Giang Trần Chí Viễn cho biết, năm nay kế hoạch nuôi tôm nước lợ của tỉnh là 87.690 ha, đến nay nông dân đã thả giống 63.585 ha, chủ yếu là theo mô hình tôm - lúa và quảng canh cải tiến. Còn riêng về tôm công nghiệp thả nuôi chưa nhiều, do nông dân còn dè dặt, chưa dám mạnh dạn. Để hạn chế thiệt hại, ngành khuyến cáo bà con tuân thủ lịch thời vụ cũng như các biện pháp kỹ thuật. Đồng thời đẩy mạnh công tác tập huấn, chuyển giao kỹ thuật, kiểm tra chặt chẽ khâu SX, vận chuyển, kinh doanh con giống, vật tư nuôi trồng thủy sản…

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm